Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Phẩm Thí dụ

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9676)
3. Phẩm Thí dụ

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

 Quyển Thứ Hai
 PHẨM "THÍ DỤ" THỨ BA


 1. Lúc bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phậtbạch Phật rằng: Nay con theo đức Thế-Tôn nghe được tiếng pháp này, trong lòng hớn hở được điều chưa từng có. Vì sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-Tát được thọ ký thành Phật mà chúng con chẳng được dự việc đó tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như-Lai.


 Thế-Tôn! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vậy: Chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như-Lai lại dùng pháp tiểu thừatế độ cho?

 Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. Vì sao? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp sở nhân thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thời chắc do pháp Đại-thừa mà được độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.

 Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách mình, mà nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước khi hề nghe, dứt các lòng nghi hối, thân ý thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết mình thật là Phật tử, từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật.

 Khi ấy, Ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 2. Con nghe tiếng pháp này

 Được điều chưa từng có

 Lòng rất đổi vui mừng

 Lưới nghi đều đã trừ,

 Xưa nay nhờ Phật dạy

 Chẳng mất nơi Đại-thừa.

 Tiếng Phật rất ít có

 Hay trừ khổ chúng sanh

 Con đã được lậu tận (1)

 Nghe cũng trừ lo khổ.

 Con ở nơi hang núi

 Hoặc dưới cụm cây rừng

 Hoặc ngồi hoặc kinh hành

 Thường suy nghĩ việc này,

 Thôi ôi! Rất tự trách

 Sao lại tự khi mình

 Chúng ta cũng Phật tử

 Đồng vào pháp vô lậu

 Chẳng được ở vị lai

 Nói pháp vô thượng đạo,

 Sắc vàng, băm hai tướng (2)

 Mười lực (3) các giải thoát.

 Đồng chung trong một pháp

 Mà chẳng được việc đây

 Tám mươi tướng tốt đẹp

 Mười tám pháp bất cộng (4)

 Các công đức như thế

 Mà ta đều đã mất
 3. Lúc con kinh hành riêng

 Thấy Phật ở trong chúng

 Danh đồn khắp mười phương

 Rộng lợi ích chúng sanh

 Tự nghĩ mất lợi này

 Chính con tự khi dối

 Con thường trong ngày đêm

 Hằng suy nghĩ việc đó

 Muốn đem hỏi Thế-Tôn?

 Là mất hay không mất?

 Con thường thấy Thế-Tôn

 Khen ngợi các Bồ-Tát (5)

 Vì thế nên ngày đêm

 Suy lường việc như vậy
 4. Nay nghe tiếng Phật nói

 Theo cơ nghi dạy Pháp

 Vô lậu khó nghĩ bàn

 Khiến chúng đến đạo tràng.

 Con xưa chấp tà kiến

 Làm thầy các Phạm-chí (6)

 Thế-Tôn rõ tâm con

 Trừ tà nói Niết-bàn.

 Con trừ hết tà kiến

 Được chứng nơi pháp không

 Bấy giờ lòng tự bảo

 Được đến nơi diệt độ

 Mà nay mới tự biết

 Chẳng phải thực diệt độ.

 Nếu lúc được thành Phật

 Đủ ba mươi hai tướng

 Trời, người, chúng, Dạ-xoa

 Rồng, thần đều cung kính

 Bấy giờ mới được nói

 Dứt hẳn hết không thừa

 Phật ở trong đại chúng

 Nói con sẽ thành Phật

 Nghe tiếng pháp như vậy

 Lòng nghi hối đã trừ.
 5. Khi mới nghe Phật nói

 Trong lòng rất sợ nghi

 Phải chăng ma giả Phật

 Não loạn lòng ta ư?

 Phật dùng các món duyên

 Thí dụ khéo nói phô,

 Lòng kia an như biển

 Con nghe, lưới nghi dứt.

 Phật nói thuở quá khứ

 Vô lượng Phật diệt độ

 An trụ trong phương tiện

 Cũng đều nói pháp đó.

 Phật hiện tại, vị lai.

 Số nhiều cũng vô lượng

 Cũng dùng các phương tiện

 Diễn nói pháp như thế.

 Như Thế-Tôn ngày nay

 Từ sanh đến xuất gia

 Được đạo Chuyển-pháp-luân

 Cũng dùng phương tiện nói

 Thế-Tôn nói đạo thật

 Ba tuần (7) không nói được

 Vì thế con định biết

 Không phải ma giả Phật

 Con sa vào lưới nghi

 Cho là ma làm ra.

 Nghe tiếng Phật êm dịu

 Sâu xa rất nhiệm mầu

 Nói suốt pháp thanh tịnh

 Tâm con rất vui mừng.

 Nghi hối đã hết hẳn

 An trụ trong thật trí

 Con quyết sẽ thành Phật

 Được trời, người cung kính

 Chuyển pháp-luân vô thượng

 Giáo hóa các Bồ-Tát.
 6. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Ta nay ở trong hàng trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì đạo vô thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thọï học, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta". Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đã được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bản nguyện cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh-văn nói kinh Đại-thừa tên là: "Diệu- Pháp Liên- Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
 7. Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng vô biên bất-khả tư-nghì kiếp, cúng dường bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì chánh pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ-Tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.


 Nước tên: Ly-Cấu, cõi đó bằng thẳng thanh tịnh đẹp đẽ an ổn giàu vui, trời người đông đảo. Lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng ròng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa trái. Đức Hoa-Quang Như-Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.

 Xá-Lợi-Phất! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải là đời ác mà bởi bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là "Đại-Bảo-Trang-Nghiêm". Vì sao gọi là "Đại-Bảo-Trang-Nghiêm"? Vì trong cõi đó dùng Bồ-Tát làm "Đại-Bảo" vậy. Các Bồ-Tát trong số đông vô lượng vô biên bất-khả tư-nghì, tính kể hay thí dụ đều không đến được, chẳng phải sức trí huệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi thì có hoa đỡ chân.

 Các vị Bồ-Tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội từ lâu. Ở nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằng được các Phật khen. Thường tu trí huệ của Phật đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững bậc Bồ-Tát như thế, khắp đầy nước đó.

 Xá-Lợi-Phất! Đức Phật Hoa-Quang thọï mười hai tiểu kiếp, trừ còn làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa-Quang Như-Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ ký vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác cho Kiên-Mãn Bồ-Tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên-mãn Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, cõi nước của đức Phật đó cũng lại như đây.

 Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quang đó diệt độ, chánh pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.

 Lúc ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 8. Xá-Lợi-Phất đời sau

 Thành đấng Phật trí khắp

 Hiệu rằng: Phật Hoa-Quang

 Sẽ độ vô lượng chúng.

 Cúng dường vô số Phật

 Đầy đủ hạnh Bồ-Tát

 Các công đức thập lực

 Chứng được đạo vô thượng

 Quá vô lượng kiếp rồi

 Kiếp tên Đại-Bảo-Nghiêm

 Cõi nước tên Ly-Cấu

 Trong sạch không vết nhơ

 Dùng lưu ly làm đất

 Dây vàng giăng đường sá

 Cây bảy báu sắc đẹp

 Thường có hoa cùng trái

 Bồ-Tát trong cõi đó

 Chí niệm thường bền vững

 Thần thông ba-la-mật

 Đều đã trọn đầy đủ

 Nơi vô số đức Phật

 Khéo học đạo Bồ-Tát

 Những Đại-sĩ như thế

 Phật Hoa-Quang hóa độ.

 Lúc Phật làm vương tử

 Rời nước bỏ vinh hoa

 Nơi thân cuối rốt sau

 Xuất gia thành Phật đạo

 Phật Hoa-Quang trụ thế

 Thọ mười hai tiểu kiếp

 Chúng nhân dân nước đó

 Sống lâu tám tiểu kiếp

 Sau khi Phật diệt độ

 Chánh pháp trụ ở đời

 Ba mươi hai tiểu kiếp

 Rộng độ các chúng sanh

 Chánh pháp diệt hết rồi

 Tượng pháp cũng băm hai

 Xá-lợi rộng truyền khắp

 Trời, người, khắp cúng dường

 Phật Hoa-Quang chỗ làm

 Việc đó đều như thế.

 Đấng Lưỡng-Túc-Tôn kia

 Rất hơn không ai bằng

 Phật tức là thân ông

 Nên phải tự vui mừng.
 9. Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại-chúng: trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ghi sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng. Mỗi người đều cởi y trên của mình đang đắp để cúng dường Phật.


 Thích-Đề Hoàn-Nhơn cùng Phạm-Thiên-Vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v.v... cúng dường nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: "Đức Phật xưa ở thành Ba-La-Nại, ban đầu chuyển-pháp-luân rất lớn vô thượng".

 Lúc đó các Thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 10. Xưa ở thành Ba-Nại

 Chuyển pháp-luân Tứ- Đế

 Phân biệt nói các pháp

 Sanh diệt của năm nhóm (8)

 Nay lại chuyển-pháp-luân

 Rất lớn diệu vô thượng,

 Pháp đó rất sâu mầu

 Ít có người tin được.

 Chúng ta từ xưa lại

 Thường nghe Thế-Tôn nói

 Chưa từng nghe thượng pháp

 Thâm diệu như thế này,

 Thế-Tôn nói pháp đó

 Chúng ta đều tùy hỷ,

 Đại trí Xá-Lợi-Phất

 Nay được lãnh Phật ký

 Chúng ta cũng như vậy

 Quyết sẽ được thành Phật,

 Trong tất cả thế gian

 Rất tôn không còn trên

 Phật đạo chẳng thể bàn

 Phương tiện tùy nghi nói

 Ta bao nhiêu nghiệp phước

 Đời nay hoặc quá khứ

 Và công đức thấy Phật.

 Trọn hồi hướng Phật đạo.
 11. Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: "Thế-Tôn ! con nay không còn nghi hối, tự mình ở trước Phật được thọï ký thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị tâm tự tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu-học, Phật thường dạy rằng : "Pháp của ta hay lìa sanh, già, bệnh, chết rốt ráo Niết-bàn". Các vị hữu-học vô-học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không v.v... nói là được Niết-bàn, mà nay ở trước đức Thế-Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật vì bốn chúng nói nhân duyên đó, khiến lìa lòng nghi hối."
 12. Khi ấy, Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật Thế-Tôn dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác ư? Các điều nói đó đều vì dạy Bồ-Tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rõ lại nghĩa đó, những người có trí do thí dụ mà được hiểu."
 13. Xá-Lợi-Phất! Như trong quốc ấp, tụ lạc có vị đại Trưởng-giả tuổi đã già suy, của giàu vô lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông; hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.

 14. Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó. Trưởng-giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi.

 Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghe đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng sợ.

 Nhà này đã bị cháy phải mau ra liền, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: "Các con mau ra!" Cha dầu thương xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ sệt, trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? gì là nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi.
 15. Bấy giờ, Trưởng-giả liền nghĩ nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không ra liền chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.

 Cha biết các con đều vẫn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có, chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng : "Đây này là những món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các con".

 Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình nên lòng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngã tư nơi đất trống không còn bị chướng ngại, tâm ông thơ thới vui mừng hớn hở.

 Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng : "Cha lúc nãy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho."
 16. Xá-Lợi-Phất! Khi đó Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân hình mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.

 Vì cớ sao? Vì ông Trưởng-giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng : "Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy lòng bình đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác."

 Vì sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hãy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy các người con đều ngồi xe lớn được điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia mình trông.
 17. Xá-Lợi-Phất! Ý của ông nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng? Xá-Lợi-Phất thưa : "'Thưa Thế-Tôn ! Không, ông Trưởng giả chỉ làm cho các con được khỏi nạn lửa, toàn thân mạng chúng nó chẳng phải là hư vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.


 Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳng phải hư vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ như vầy: Ta dùng trước phương tiện cho các con được ra khỏi, vì nhân duyên đó nên không hư vọng vậy. Huống gì ông Trưởng-giả tự biết mình của giàu vô lượng muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn!"
 18. Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá-Lợi-Phất! Như-Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ hãi suy não lo buồn vô minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành tựu vô lượng tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy; có sức đại thần thông cùng sức trí huệ đầy đủ các món phương tiện. Trí huệ Ba-la-mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa; sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng sanh được vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
 19. Ta thấy, các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục (9) tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọï khổ địa-ngục, súc-sanh, ngạ-quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế chúng-sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm không cầu giải thoát; ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.
 20. Xá-Lợi-Phất! Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí huệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.

 21. Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí huệ bỏ chước phương tiện, mà vì chúng sanh khen ngợi các món tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy của Như-Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà được độ thoát.Vì sao? Vì các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật. Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân báu lớn.


 Đức Như-Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy (10) mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí huệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, vì chúng sanh nói ba thừa Thanh-văn, Duyên-giác cùng Phật-thừa mà bảo rằng : " Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sinh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cõi sẽ được chứng ba thừa: Thanh-văn, Duyên-giác và Phật-thừa.

 Nay ta vì các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các người chỉ nên siêng năng tinh-tấn tu hành". Đức Như-Lai dùng phương tiện ấy để dụ dẫn chúng sanh thẳng đến, lại bảo: "Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác-chi, thánh-đạo (11) , thiền định vô lậu cùng giải thoát tam muội v.v... để tự vui sướng, được vô lượng sự an ổn khoái lạc".
 22. Xá-Lợi-Phất! nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh-văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

 Nếu có chúng sanh nào theo đức Thế-Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rõ nhân duyên của các pháp, gọi đó là Duyên-giác-thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.

 Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu nhứt-thiết-trí, Phật-trí, tự-nhiên-trí, vô-sư-trí, các món tri-kiến-lực, vô-úy của Như-Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại-thừa, Bồ-Tát vì cầu được thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
 23. Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô úy, ông tự nghĩ, ta của giàu vô lượng, nên bình đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Đức Như-Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có vô lượng nghìn ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi được sự vui Niết-bàn.


 Bấy giờ, đức Như-Lai bèn nghĩ: "Ta có vô lượng vô biên trí huệ, lực-vô-úy v.v... tạng pháp của các đức Phật, các chúng sanh này đều là con của ta đồng ban cho pháp Đại-thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như-Lai mà cho chúng sanhdiệt độ.

 Những chúng sanh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thiền định, giải thoát v.v... của các đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.
 24. Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhất, song ông Trưởng-giả kia không có lỗi hư dối. Đức Như-Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại-thừa mà độ giải thoát đó.


 Vì sao? Như-Lai có vô lượng tạng pháp trí huệ, lực, vô-sở-úy, có thể ban pháp Đại-thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ vì chúng sanh không thọ được hết.

 Xá-Lợi-Phất! Vì nhân duyên đó nên phải biết các đức Như-Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật-thừa phân biệt nói thành ba.

 Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 25. Thí như ông Trưởng-giả

 Có một căn nhà rất lớn

 Nhà đó đã lâu

 Mà lại rất xấu xa,

 Phòng nhà vừa cao nguy

 Gốc cột lại gẫy mục

 Trính xiêng đều xiêu vẹo

 Nền móng đã nát rã,

 Vách phên đều sụp đổ

 Đất bùn rơi rớt xuống,

 Tranh lợp sa tán loạn

 Kèo đòn tay rời khớp,

 Bốn bề đều cong vạy

 Khắp đầy những tạp nhơ,

 Có đến năm trăm người

 Ở đỗ nơi trong đó.

 Chim xi, hiêu, điêu, thứu,

 Qua, chim thước, cưu, cáp

 Loài ngoan-xà, phúc-yết,

 Giống ngô-công, do-diên,

 Loài thủ-cung, bá-túc

 Dứu-ly cùng hề-thử

 Các giống độc trùng dữ

 Ngang dọc xen ruỗi chạy,

 Chỗ phẩn giải hôi thối.

 Đồ bất tịnh chảy tràn

 Các loài trùng khương lương

 Bu nhóm ở trên đó,

 Cáo, sói cùng dã-can

 Liếm nhai và dày đạp

 Cắn xé những thây chết

 Xương thịt bừa bãi ra,

 Do đây mà bầy chó

 Đua nhau đến ngoạm lấy,

 Ốm đói và sợ sệt

 Nơi nơi tìm món ăn

 Giành giựt cấu xé nhau

 Gầm gừ gào sủa rên,

 Nhà đó sự đáng sợ

 Những biến trạng dường ấy.

 Khắp chỗ đều có những

 Quỷ, lî, mị, vọng, lượng

 Quỷ Dạ-xoa quỉ dữ

 Nuốt ăn cả thịt người,

 Các loài trùng độc dữ

 Những cầm thú hung ác

 Ấp, cho bú sản sanh

 Đều tự giấu gìn giữ

 Quỷ Dạ-xoa đua đến

 Giành bắt mà ăn đó,

 Ăn đó no nê rồi

 Lòng hung dữ thêm hăng

 Tiếng chúng đánh cãi nhau

 Thật rất đáng lo sợ.

 Những quỉ Cưu-bàn-trà

 Ngồi xổm trên đống đất

 Hoặc có lúc hỏng đất

 Một thước hay hai thước

 Qua rồi lại, dạo đi

 Buông lung chơi cùng giỡn

 Nắm hai chân của chó

 Đánh cho la thất thanh

 Lấy chân đạp trên cổ

 Khủng bố chó để vui.

 Lại có các giống quỷ

 Thân nó rất cao lớn

 Trần truồng thân đen xấu

 Thường ở luôn trong đó

 Rền tiếng hung ác lớn

 Kêu la tìm món ăn

 Lại có các giống quỷ

 Cổ nó nhỏ bằng kim,

 Lại có các giống quỷ

 Đầu nó như đầu trâu

 Hoặc là ăn thịt người

 Hoặc là ăn thịt chó,

 Đầu tóc rối tung lên

 Rất ác lại hung hiểm,

 Bị đói khát bức ngặt

 Kêu la vừa rong chạy

 Dạ-xoa cùng quỷ đói

 Các chim muông ác độc

 Đói gấp rảo bốn bề

 Rình xem các cửa sổ

 Các nạn dường thế đấy

 Vô lượng việc ghê sợ (12)
 26. Nhà cũ mục trên đó

 Thuộc ở nơi một người

 Người ấy vừa mới ra

 Thời gian chưa bao lâu

 Rồi sau nhà cửa đó

 Bỗng nhiên lửa cháy đỏ

 Đồng một lúc bốn bề

 Ngọn lửa đều hừng hực,

 Rường cột và trính xiêng

 Tiếng tách nổ vang động

 Nát gẫy rơi rớt xuống

 Vách phên đều lở ngã,

 Các loại quỷ thần thảy

 Đồng cất tiếng kêu to,

 Các giống chim điêu, thứu

 Quỷ Cưu-bàn-trà thảy

 Kinh sợ chạy sảng sốt

 Vẫn không tự ra được,

 Thú dữ loài trùng độc

 Chui núp trong lỗ hang

 Các quỷ Tỳ-xá-xà

 Cũng ở trong hang đó

 Vì phước đức kém vậy

 Bị lửa đến đốt bức

 Lại tàn hại lẫn nhau

 Uống máu ăn thịt nhau.

 Những loại thú dã-can

 Thời đều đã chết trước

 Các giống thú dữ lớn

 Giành đua đến ăn nuốt.

 Khói tanh bay phùn phụt

 Phủ khắp bít bốn bề,

 Loài ngô-công, do-diên

 Cùng với rắn hung độc

 Bị lửa lòn đốt cháy

 Tranh nhau chạy khỏi hang

 Quỷ Bàn-trà rình chờ

 Liền bắt lấy mà ăn.

 Lại có các ngã-quỷ

 Trên đầu lửa rực cháy

 Đói khát rất nóng khổ

 Sảng sốt chạy quàng lên,

 Nhà lửa đó dường ấy

 Rất đáng nên ghê sợ

 Độc hại cùng tai lửa

 Các nạn chẳng phải một.
 27. Lúc bấy giờ chủ nhà

 Đứng ở nơi ngoài cửa

 Nghe có người mách rằng:

 Các người con của ông

 Trước đây vì dạo chơi

 Mà đến vào nhà này

 Thơ bé không hiểu biết

 Chỉ vui ham ưa đắm.

 Trưởng-giả vừa nghe xong

 Kinh sợ vào nhà lửa

 Tìm phương nghi cứu tế

 Cho con khỏi thiêu hại

 Mà dụ bảo các con

 Nói rõ các hoạn nạn:

 Nào ác quỷ độc trùng

 Hỏa tai lan tràn cháy

 Các sự khổ thứ lớp

 Nối luôn không hề dứt

 Loài độc xà, ngươn phúc

 Và các quỷ Dạ-xoa

 Cùng quỷ Cưu-bàn-trà

 Những dã-can, chồn, chó

 Chim điêu, thứu xi, hiêu

 Lại giống bá túc thảy

 Đều đói khát khổ gấp

 Rất đáng phải ghê sợ

 Chỗ khổ nạn như thế

 Huống lại là lửa lớn.

 Các con nhỏ không hiểu

 Dầu có nghe cha dạy

 Cứ vẫn còn ham ưa

 Vui chơi mãi không thôi
 28. Bấy giờ trưởng-giả kia

 Mới bèn nghĩ thế này

 Các con như thế đó

 Làm ta thêm sầu não

 Nay trong nhà lửa này

 Không một việc đáng vui

 Mà các con ngây dại

 Vẫn ham mê vui chơi

 Chẳng chịu nghe lời ta

 Toan sẽ bị lửa hại.

 Ông bèn lại suy nghĩ

 Nên bày các phương tiện

 Bảo với các con rằng:

 Cha có rất nhiều thứ

 Các đồ chơi trân kỳ

 Những xe báu tốt đẹp

 Nào xe dê, xe hươu

 Cùng với xe trâu lớn

 Hiện để ở ngoài cửa

 Các con mau ra đây

 Cha chính vì các con

 Mà sắm những xe này

 Tùy ý các con thích

 Có thể để dạo chơi.

 Các con nghe cha nói

 Các thứ xe như vậy

 Tức thời cùng giành đua

 Rảo chạy ra khỏi nhà

 Đến nơi khoảng đất trống

 Rời những sự khổ nạn

 Trưởng-giả thấy các con

 Được ra khỏi nhà lửa

 Ở nơi ngã tư đường

 Đều ngồi tòa sư-tử

 Ông bèn tự mừng rằng

 Ta nay rất mừng vui

 Những đứa con ta đây

 Đẻ nuôi rất khó lắm

 Chúng nhỏ dại không hiểu

 Mới lầm vào nhà hiểm

 Có nhiều loài trùng độc

 Quỷ, lî mị đáng sợ

 Lửa lớn cháy hừng hực

 Bốn phía đều phựt lên

 Mà các trẻ con này

 Lại ham ưa vui chơi

 Nay ta đã cứu chúng

 Khiến đều được thoát nạn

 Vì thế các người ơi!

 Ta nay rất vui mừng.

 Khi ấy các người con

 Biết cha đã ngồi an

 Đều đến bên chỗ cha

 Mà thưa cùng cha rằng:

 Xin cha cho chúng con

 Ba thứ xe báu lạ

 Như vừa rồi cha hứa

 Các con mau ra đây

 Sẽ cho ba thứ xe

 Tùy ý các con muốn

 Bây giờ chính phải lúc

 Xin cha thương cấp cho.
 29. Trưởng-giả giàu có lớn

 Kho đụn rất nhiều đầy

 Vàng bạc cùng lưu ly

 Xa-cừ ngọc mã-não,

 Dùng những món vật báu

 Tạo thành các xe lớn

 Chưng dọn trang nghiêm đẹp

 Khắp vòng có bao lơn

 Bốn mặt đều treo linh

 Dây vàng xen thắt tụi

 Lưới mành kết trân châu

 Giăng bày phủ phía trên

 Hoa vàng các chuỗi ngọc

 Lòng thòng rủ khắp chỗ

 Các màu trang sức đẹp

 Khắp vòng xây quanh xe

 Dùng nhiễu hàng mềm mại

 Để làm nệm lót ngồi

 Vải quí mịn rất tốt

 Giá trị đến nghìn muôn

 Bóng láng trắng sạch sẽ

 Dùng trải trùm trên nệm

 Có trâu trắng to lớn

 Mập khỏe nhiều sức mạnh

 Thân hình rất tươi tốt

 Để kéo xe báu đó

 Đông những tôi và tớ

 Mà chực hầu giữ gìn

 Đem xe đẹp như thế

 Đồng ban cho các con

 Các con lúc bấy giờ

 Rất vui mừng hớn hở

 Ngồi trên xe báu đó

 Dạo đi khắp bốn phương

 Vui chơi nhiều khoái lạc

 Tự tại không ngăn ngại.
 30. Bảo Xá-Lợi-Phất này

 Đức Phật cũng như vậy

 Tôn cả trong hàng Thánh

 Cha lành của trong đời

 Tất cả các chúng sanh

 Đều là con của ta

 Say mê theo thế lạc

 Không có chút huệ tâm

 Ba cõi hiểm không an

 Dường như nhà lửa cháy

 Các nạn khổ dẫy đầy

 Rất đáng nên ghê sợ

 Thường có những sanh, già

 Bệnh, chết và rầu lo

 Các thứ lửa như thế

 Cháy hừng chẳng tắt dứt

 Đức Như-Lai đã lìa

 Nhà lửa ba cõi đó

 Vắng lặngthong thả

 An ổn trong rừng nội

 Hiện nay ba cõi này

 Đều là của ta cả

 Những chúng sanh trong đó

 Cũng là con của ta

 Mà nay trong ba cõi

 Có nhiều thứ hoạn nạn

 Chỉ riêng một mình ta

 Có thể cứu hộ chúng

 Dầu lại đã dạy bảo

 Mà vẫn không tin nhận

 Vì nơi các dục nhiễm

 Rất sanh lòng tham mê

 Bởi thế nên phương tiện

 Vì chúng nói ba thừa

 Khiến cho các chúng sanh

 Rõ ba cõi là khổ

 Mở bày cùng diễn nói

 Những đạo pháp xuất thế,

 Các người con đó thảy

 Nếu nơi tâm quyết định

 Đầy đủ ba món minh (13)

 Và sáu món thần thông (14)

 Có người được Duyên-Giác

 Hoặc bất thối Bồ-Tát.

 Xá-Lợi-Phất phải biết

 Ta vì các chúng sanh

 Dùng món thí dụ này

 Để nói một Phật-thừa

 Các ông nếu có thể

 Tin nhận lời nói đây.

 Tất cả người đều sẽ

 Chứng thành quả Phật đạo
 31. Phật thừa đây vi diệu

 Rất thanh tịnh thứ nhất

 Ở trong các thế giới

 Không còn pháp nào trên

 Của các Phật vui ưa,

 Tất cả hàng chúng sanh

 Đều phải nên khen ngợi

 Và cúng dường lễ bái

 Đủ vô lượng nghìn ức

 Các trí lực, giải thoát

 Thiền định và trí huệ

 Cùng pháp khác của Phật

 Chứng được thừa như thế

 Khắp cho các con thảy

 Ngày đêm cùng kiếp số

 Thường được ngồi dạo chơi

 Cho các hàng Bồ-Tát

 Cùng với chúng Thanh-văn

 Nương nơi thừa báu này

 Mà thẳng đến đạo tràng.

 Vì bởi nhân duyên đó

 Tìm kỹ khắp mười phương

 Lại không thừa nào khác

 Trừ Phật dùng phương tiện

 Bảo với Xá-Lợi-Phất!

 Bọn ông các người thảy

 Đều là con của ta

 Ta thời là cha lành.

 Các ông trải nhiều kiếp

 Bị các sự khổ đốt

 Ta đều đã cứu vớt

 Cho ra khỏi ba cõi

 Ta dầu ngày trước nói

 Các ông được diệt độ

 Nhưng chỉ hết sanh tử

 Mà thật thời chẳng diệt

 Nay việc nên phải làm

 Chỉ có trí huệ Phật.

 Nếu có Bồ-Tát nào

 Ở trong hàng chúng này

 Có thể một lòng nghe

 Pháp thật của các Phật,

 Các đức Phật Thế-Tôn

 Dầu dùng chước phương tiện

 Mà chúng sanh được độ

 Đều là Bồ-Tát cả
 32. Nếu có người trí nhỏ

 Quá mê nơi ái dục

 Phật bèn vì bọn này

 Mà nói lý khổ-đế,

 Chúng sanh nghe lòng mừng

 Được điều chưa từng có

 Đức Phật nói khổ-đế,

 Chơn thật không sai khác

 Nếu lại có chúng sanh

 Không rõ biết gốc khổ

 Quá say nơi khổ nhân

 Chẳng tạm rời bỏ được

 Phật vì hạng người này

 Dùng phương tiện nói dạy

 Nguyên nhân có các khổ

 Tham dục là cội gốc

 Nếu dứt được tham dục

 Khổ không chỗ nương đỗ

 Dứt hết hẳn các khổ

 Gọi là đế thứ ba

 Vì chứng diệt-đế vậy

 Mà tu hành đạo-đế

 Lìa hết các khổ phược

 Gọi đó là giải thoát

 Người đó nơi pháp gì

 Mà nói được giải thoát?

 Chỉ xa rời hy vọng

 Gọi đó là giải thoát

 Kỳ thực chưa phải được

 Giải thoát hẳn tất cả

 Đức Phật nói người đó

 Chưa phải thật diệt độ

 Vì người đó chưa được

 Đạo quả vô thượng vậy.

 Ý của ta không muốn

 Cho đó đến diệt độ,

 Ta là đấng Pháp-vương

 Tự tại nơi các Pháp

 Vì an ổn chúng sanh

 Nên hiện ra nơi đời.

 Xá-Lợi-Phất phải biết

 Pháp ấn của ta đây

 Vì muốn làm lợi ích

 Cho thế gian nên nói

 Tại chỗ ông đi qua

 Chớ có vọng tuyên truyền.

 Nếu có người nghe đến

 Tùy hỷ kính nhận lấy

 Phải biết rằng người ấy

 Là bậc bất-thối-chuyển

 Nếu có người tin nhận

 Kinh pháp vô thượng này.

 Thời người đó đã từng

 Thấy các Phật quá khứ

 Cung kínhcúng dường

 Cũng được nghe pháp này.

 Nếu người nào có thể

 Tin chịu lời ông nói

 Thời chính là thấy Ta

 Cũng là thấy nơi ông

 Cùng các chúng Tỳ-kheo

 Và các hàng Bồ-Tát.
 33. Phật vì người trí sâu

 Nói kinh Pháp-Hoa này

 Kẻ thức cạn nghe đến

 Mê lầm không hiểu được.

 Tất cả hàng Thanh-văn

 Cùng với Bích-chi-Phật

 Ở trong kinh pháp này

 Sức kia không hiểu được.

 Chính ông Xá-Lợi-Phất

 Hãy còn nơi kinh này

 Dùng lòng tin được vào

 Huống là Thanh-văn khác.

 Bao nhiêu Thanh-văn khác

 Do tin theo lời Phật

 Mà tùy thuận kinh này

 Chẳng phải trí của mình.
 34. Lại này Xá-Lợi-Phất!

 Kẻ kiêu mạn biếng lười

 Vọng so chấp lấy ngã

 Chớ vì nói kinh này,

 Hạng phàm phu biết cạn

 Quá mê năm món dục

 Nghe pháp không hiểu được

 Cũng chẳng nên vì nói.

 Nếu có người không tin

 Khinh hủy chê kinh này

 Thời là dứt tất cả

 Giống Phật ở thế gian.

 Nếu có người sịu mặt

 Mà ôm lòng nghi hoặc

 Ông nên lóng nghe nói

 Tội báo của người đó

 Hoặc Phật còn tại thế

 Hoặc sau khi diệt độ

 Nếu có người chê bai

 Kinh điển như thế này

 Thấy có người đọc tụng

 Biên chép thọ trì kinh

 Rồi khinh tiện ghét ghen

 Mà ôm lòng kết hờn

 Tội báo của người đó

 Ông nay lại lóng nghe.

 Người đó khi mạng chung

 Sa vào ngục A-tỳ

 Đầy đủ một kiếp chaün

 Kiếp mãn hết lại sanh

 Cứ xoay vần như thế

 Nhẫn đến vô số kiếp.

 Từ trong địa ngục ra

 Sẽ đọa vào súc sanh,

 Hoặc làm chó, dã-can

 Thân thể nó ốm gầy

 Đen điu thêm ghẻ lác

 Bị người thường chọc ghẹo

 Lại còn phải bị người

 Gớm nhờm và ghét rẻ

 Thường ngày đói khát khổ

 Xương thịt đều khô khan,

 Lúc sống chịu khổ sở

 Chết bị ném ngói đá

 Vì đoạn mất giống Phật

 Nên thọ tội báo đó

 Hoặc sanh làm lạc đà

 Hoặc sanh vào loài lừa

 Thân thường mang kéo nặng

 Lại thêm bị đánh đập

 Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ

 Ngoài ra không biết gì

 Vì khinh chê kinh này

 Mà mắc tội như vậy

 Có khi làm dã-can

 Đi vào trong xóm làng

 Thân thể đầy ghẻ lác

 Lại chột hết một mắt

 Bị bọn trẻ nhỏ vây

 Theo đánh đập liệng ném

 Chịu nhiều các đau khổ

 Hoặc có lúc phải chết

 Ở đây vừa chết rồi

 Liền lại thọ thân rắn

 Thân thể nó dài lớn

 Đến năm trăm do tuần

 Điếc ngây và không chân

 Lăn lóc đi bằng bụng

 Bị các loài trùng nhỏ

 Cắn rúc ăn thịt máu

 Bị khổ cả ngày đêm

 Không tạm có ngừng nghỉ

 Vì khinh chê kinh này

 Mà mắc tội như vậy.

 Nếu được sanh làm người

 Các căn đều ám độn

 Lùn xấu lại lệch què

 Đui điếc thêm lưng gù

 Có nói ra lời gì

 Mọi người không tin nhận

 Hơi miệng thường hôi thối

 Bị quỷ mị dựa nhập

 Nghèo cùng rất hèn hạ

 Bị người sai khiến luôn,

 Nhiều bệnh thân ốm gầy

 Không có chỗ cậy nhờ

 Dù nương gần với người

 Mà người chẳng để ý

 Nếu có được điều chi

 Thời liền lại quên mất,

 Nếu học qua nghề thuốc

 Theo đúng phép trị bịnh

 Mà bệnh người nặng thêm

 Hoặc có khi đến chết,

 Nếu tự mình có bệnh

 Không người chữa lành được

 Dù có uống thuốc hay

 Mà bệnh càng thêm nặng,

 Hoặc người khác phản nghịch

 Cướp giật trộm lấy của

 Các tội dường thế đó

 Lại tự mang vạ lây.

 Những người tội như đây

 Trọn không thấy được Phật

 Là vua trong hàng Thánh

 Thường nói pháp giáo hóa

 Những người tội như đây

 Thường sanh chỗ hoạn nạn

 Tâm cuồng loạn, tai điếc

 Trọn không nghe pháp được,

 Trải qua vô số kiếp

 Như số cát sông Hằng

 Sanh ra liền điếc câm

 Các căn chẳng đầy đủ

 Thường ở trong địa ngục

 Như dạo chơi vườn nhà,

 Ở tại các đạo khác

 Như ở nhà cửa mình

 Lạc đà, lừa, lợn, chó

 Là chỗ kia thường đi

 Vì khinh chê kinh này

 Mắc tội dường thế đó.

 Nếu được sanh làm người

 Điếc, đui lại câm, ngọng

 Nghèo cùng các tướng suy

 Dùng đó tự trang nghiêm.

 Sưng bủng bệnh khô khát

 Ghẻ, lác, cùng ung thư

 Các bệnh như trên đó

 Dùng làm y phục mặc,

 Thân thể thường hôi hám

 Nhơ nhớp không hề sạch

 Lòng chấp ngã sâu chặt

 Thêm nhiều tánh giận hờn

 Tình dâm dục hẫy hừng

 Đến chẳng chừa cầm thú,

 Vì khinh chê kinh này

 Mắc tội dường thế đó.
 35. Bảo cho Xá-Lợi-Phất!

 Người khinh chê kinh này

 Nếu kể nói tội kia

 Cùng kiếp cũng chẳng hết

 Vì bởi nhân duyên đó

 Ta vẫn bảo các ông

 Trong nhóm người vô trí

 Chớ nên nói kinh này

 Nếu có người lợi căn

 Sức trí huệ sáng láng

 Học rộng và nhớ dai

 Lòng mong cầu Phật đạo

 Những hạng người như thế

 Mới nên vì đó nói

 Nếu có người đã từng

 Thấy trăm nghìn ức Phật

 Trồng các cội đức lành

 Thâm tâm rất bền vững

 Hạng người được như thế

 Mới nên vì đó nói.

 Nếu có người tinh tấn

 Thường tu tập lòng từ

 Chẳng hề tiếc thân mạng

 Mới nên vì đó nói

 Nếu có người cung kính

 Không có sanh lòng khác

 Lìa xa các phàm phu

 Ở riêng trong núi thẩm

 Những hạng người như thế

 Mới nên vì đó nói

 Lại Xá-Lợi-Phất này!

 Nếu thấy có người nào

 Rời bỏ ác tri-thức

 Gần gũi bạn hiền lành

 Người được như thế ấy

 Mới nên vì đó nói.

 Nếu thấy hàng Phật tử

 Giữ giới hạnh trong sạch

 Như minh châu sáng sạch

 Ham cầu kinh Đại thừa

 Những người được như thế

 Mới nên vì đó nói.

 Nếu người không lòng giận

 Chắc thật ý dịu hòa

 Thường thương xót mọi loài

 Cung kính các đức Phật

 Hạng người tốt như thế

 Mới nên vì đó nói.

 Lại có hàng Phật tử

 Ở tại trong đại chúng

 Thuần dùng lòng thanh tịnh

 Các món nhân cùng duyên

 Thí dụ và lời lẽ

 Nói pháp không chướng ngại

 Những người như thế ấy

 Mới nên vì đó nói

 Nếu có vị Tỳ-kheo

 Vì cầu nhứt-thiết-trí

 Khắp bốn phương cầu pháp

 Chắp tay cung kính thọ

 Chỉ ưa muốn thọ trì

 Kinh điển về Đại-thừa

 Nhẫn đến không hề thọ

 Một bài kệ kinh khác

 Hạng người được như thế

 Mới nên vì đó nói.

 Như có người chí tâm

 Cầu xá-lợi của Phật

 Cầu kinh cũng như thế

 Được rồi đỉnh lễ thọï

 Người đó chẳng còn lại

 Có lòng cầu kinh khác

 Cũng chưa từng nghĩ tưởng

 Đến sách vở ngoại đạo

 Người được như thế ấy

 Mới nên vì đó nói.

 Bảo cùng Xá-Lợi-Phất!

 Ta nói các sự tướng

 Của người cầu Phật đạo

 Cùng kiếp cũng chẳng hết

 Những người như thế đó

 Thời có thể tin hiểu

 Ông nên vì họ nói

 Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43111)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43883)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43003)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48993)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39808)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53766)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36806)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40781)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49718)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47292)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27675)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25814)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29860)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27124)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24695)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21279)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23196)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23857)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22771)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29551)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20612)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34143)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24628)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29967)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20194)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20385)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15124)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23842)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34041)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23971)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29158)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60105)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27574)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68678)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24486)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26327)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20780)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20029)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27528)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46362)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25537)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29210)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188746)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27382)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31095)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33101)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23968)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25572)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26644)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36598)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27298)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30334)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37256)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23868)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36924)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27570)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28306)
Công Phu Khuya
(Xem: 24135)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant