Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Phẩm Pháp-sư công-đức

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9312)
19. Phẩm Pháp-sư công-đức

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

QUYỂN THỨ SÁU 
PHẨM "PHÁP-SƯ CÔNG-ĐỨC"
THỨ MƯỜI CHÍN


 1. Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thường-Tinh-Tấn đại Bồ-Tát rằng: Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.

 2. Thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra, thấy khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu-Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhân duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết. Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu người ở trong chúng

 Dùng tâm không sợ sệt

 Nói kinh Pháp-Hoa này

 Ông nghe công đức đó

 Người đó được tám trăm

 Công đức thù thắng nhãn

 Do dùng đây trang nghiêm

 Mắt kia rất thanh tịnh.

 Mắt thịt cha mẹ sanh

 Thấy cả cõi tam thiên

 Trong ngoài núi Di-lâu

 Núi Tu-di, Thiết-vi

 Và các núi rừng khác

 Biển lớn nước sông ngòi

 Dưới đến ngục A-tỳ

 Trên đến trời Hữu-Đảnh

 Chúng sanh ở trong đó

 Tất cả đều thấy rõ

 Dầu chưa được thiên nhãn

 Sức nhục nhãn như thế.
 3. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, được một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa-ngục vô gián, trên đến trời Hữu-Đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng. Tiếng voi, tiếng ngựa,tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc; tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng-tử, tiếng đồng-nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhân, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ xoa, tiếng Càn thát bà, tiếng A tu la, tiếng Ca lâu la, tiếng Khẩn na la, tiếng Ma hầu na dà, tiếng lưả, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa-ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh-văn, tiếng Bích-chi-Phật, tiếng Bồ-Tát, tiếng Phật.

 Nói tóm đó, trong cõi tam-thiên đại-thiên, tất cả trong ngoài các thứ tiếng, dầu chưa được thiên nhĩ dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh thảy đều nghe biết, phân biệt các tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn.

 Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 4. Tai cha mẹ sanh ra

 Trong sạch không đục nhơ

 Dù tai này thường nghe

 Cả tiếng cõi tam thiên

 Tiếng voi, ngựa, trâu, xe

 Tiếng chung linh loa cổ

 Tiếng cầm, sắc, không hầu

 Tiếng ống tiêu, ống dịch

 Tiếng ca hay thanh tịnh

 Nghe đó mà chẳng ham.

 Tiếng vô số giống người

 Nghe đều hiểu rõ được

 Lại nghe tiếng các trời

 Tiếng ca rất nhiệm mầu

 Và nghe tiếng trai, gái,

 Tiếng đồng-tử, đồng-nữ

 Trong núi sông hang hiểm

 Tiếng Ca-lăng-tần-dà

 Cộng-mạng các chim thảy

 Đều nghe tiếng của nó.

 Địa ngục các đau đớn

 Các thứ tiếng độc khổ

 Ngạ quỷ đói khát bức

 Tiếng tìm cầu uống ăn

 Các hàng A-tu-la

 Ở nơi bên biển lớn

 Lúc cùng nhau nói năng

 Vang ra tiếng tăm lớn

 Như thế người nói pháp

 An trụ ở trong đây

 Xa nghe các tiếng đó

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Trong cõi nước mười phương

 Cầm thú kêu hô nhau

 Người nói kinh Pháp-Hoa

 Ở đây đều nghe đó

 Trên các trời Phạm-Thế

 Quang-Âm cùng Biến-Tịnh

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Tiếng tăm của kia nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Tất cả chúng Tỳ-kheo

 Và các Tỳ-kheo-ni

 Hoặc đọc tụng kinh điển,

 Hoặc vì người khác nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Lại có các Bồ-Tát

 Đọc tụng nơi kinh pháp

 Hoặc vì người khác nói

 Soạn tập giải nghĩa kinh

 Các tiếng tăm như thế

 Thảy đều được nghe đó.

 Các Phật đấng Đại-Thánh

 Giáo hóa hàng chúng sanh

 Ở trong các đại hội

 Diễn nói pháp nhiệm mầu

 Người trì Pháp-Hoa nầy

 Thảy đều được nghe đó.

 Cõi tam-thiên đại-thiên

 Các tiếng tăm trong ngoài

 Dưới đến ngục A-tỳ (3)

 Trên đến trời Hữu-Đảnh (4)

 Đều nghe tiếng tăm kia

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Vì tai kia sáng lẹ

 Đều hay phân biệt biết

 Người trì kinh Pháp-Hoa

 Dầu chưa được thiên nhĩ

 Chỉ dùng tai sanh ra

 Công đức đã như thế.
 5. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiệân-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỷ công đức, dùng tỹ căn thanh tịnh đó, ngửi khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi: Mùi hoa tu-mạn-na, mùi hoa xa-đề, mùi hoa mạt-lợi, mùi hoa chiêm-bặc, mùi hoa ba-la-la, mùi hoa sen đỏ, mùi hoa sen xanh, mùi hoa sen trắng, mùi cây có hoa, mùi cây có trái, mùi chiên-đàn, mùi trầm-thủy, mùi đa-ma-la-bạt, mùi đa-da-la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt.

 Và lại rõ biết mùi chúng sanh : Mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v.. mùi trai, mùi gái, mùi đồng-nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều được ngữi rõ biết chẳng nhầm.

 Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng ngửi mùi trên các cõi trời: Mùi cây ba- lợi-chất-đa-la, cây câu-bệ-đa-la, cùng mùi hoa mạn-đà-la, hoa đại-mạn-đa-la, hoa mạn-thù-sa, hoa đại-mạn-thù-sa, mùi gỗ chiên-đàn, trầm-thuỷ các thứ hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hợp thoảng ra mùi thơm đều ngửi biết.

 Lại ngửi mùi nơi thân của các vị trời : Mùi của Thích-Đề-Hoàn-Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên Diệu-Pháp-Đường vì các vị trời Đao-Lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân xác của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa ngửi biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm-Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu-Đảnh cũng đều ngửi biết.

 Và ngửi mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh-văn, mùi Bích-chi-Phật, mùi Bồ-Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa ngửi biết chỗ ở của đó. Dầu ngửi biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nếu muốn phân biệt vì người khác nói, nghi nhớ không nhầm.

 Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 6. Người đó mũi thanh tịnh

 Ở trong thế giới này

 Hoặc vật thơm hoặc hôi

 Các thứ đều ngửi biết.

 Tu-mạn-na, xa-đề

 Đa-ma-la, chiên-đàn

 Trầm-thủy và mùi quế

 Mùi các thứ hoa trái

 Và mùi các chúng sanh :

 Mùi nam-tử, nữ-nhơn

 Người nói pháp ở xa

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Đại-Thế Chuyển-luân-vương

 Tiểu-chuyển-luân và con

 Bầy tôi, các cung nhân

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Trân bảo đeo nơi thân

 Cùng tạng báu trong đất

 Bảo-nữ của Luân-vương

 Ngửi hương biết chỗ nào.

 Mọi người đồ nghiêm thân

 Y phụcchuỗi ngọc

 Các thứ hương xoa thân

 Ngửi mùi biết thân kia.

 Các trời hoặc đi, ngồi

 Dạo chơi và thần biến

 Người trì Pháp-Hoa này

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cây hoa trái hột

 Và mùi thơm dầu tô

 Người trì kinh ở đây

 Đều biết ở chỗ nào.

 Các núi, chỗ sâu hiểm

 Cây chiên-đàn nở hoa

 Chúng sanh ở trong đó

 Ngửi mùi đều biết được.

 Núi Thiết-vi, biển lớn

 Các chúng sanh trong đất

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết đó ở đâu

 Trai gái A-tu-la

 Và quyến thuộc của chúng

 Lúc đánh cãi, dạo chơi

 Ngửi hương đều biết được.

 Đồng trống, chỗ hiểm trở

 Sư tử, voi, hùm, sói

 Bò rừng, trâu nước thảy

 Ngửi hương biết chỗ ở.

 Nếu có người nghén chửa

 Chưa rõ trai hay gái

 Không căn và phi nhơn

 Ngửi mùi đều biết được.

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết người mới nghén chửa

 Thành tựu hay chẳng thành

 An vui đẻ con phước

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết tâm niệm trai, gái

 Lòng nhiễm dục ngu, hờn

 Cũng biết người tu hành

 Các phục tàng trong đất

 Vàng, bạc, các trân bảo

 Đồ đồng chỗ đựng chứa

 Nghe nói đều biết được

 Các thứ chuỗi ngọc báu

 Không ai biết giá mấy

 Ngửi mùi biết mắc rẻ

 Chỗ sản xuất ở đâu.

 Các thứ hoa trên trời

 Mạn-đà, mạn-thù-sa

 Cây Ba-lợi-chất-đa

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cung điện trên trời

 Thượng, trung, hạ sai khác

 Các hoa báu trang nghiêm

 Ngửi hương đều biết được.

 Thắng điện vườn rừng trời

 Các nhà Diệu-Pháp-Đường

 Ở trong đó vui chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các trời hoặc nghe pháp

 Hoặc lúc hưởng ngũ dục

 Lại, qua, đi, ngồi, nằm

 Ngửi mùi đều biết được.

 Thiên nữ mặc y phục

 Hoa hương tốt trang nghiêm

 Lúc quanh khắp dạo chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Lần lượt lên như thế

 Nhẫn đến trời Phạm-Thế

 Nhập thiền cùng xuất thiền

 Ngửi mùi đều biết được.

 Trời Quang-Aââm, Biến-Tịnh (5)

 Nhẫn đến nơi Hữu-Đảnh

 Mới sanh và lui chết

 Ngửi hương đều biết được.

 Các hàng Ty-kheo chúng

 Nơi pháp thường tinh tấn

 Hoặc ngồi hoặc kinh hành

 Và đọc tụng kinh điển

 Hoặc ở dưới rừng cây

 Chuyên ròng mà ngồi thiền

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết ở tại đâu.

 Bồ-Tát chí bền chắc

 Ngồi thiền hoặc đọc tụng

 Hoặc vì người nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Nơi nơi chỗ Thế-Tôn

 Được mọi người cung kính

 Thương chúng mà nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Chúng sanh ở trước Phật

 Nghe kinh đều mừng vui

 Đúng pháp mà tu hành

 Ngửi mùi đều biết được.

 Dầu chưa được vô lậu

 Pháp-sanh-tỹ Bồ-Tát

 Mà người trì kinh đây

 Trước được tướng mũi nàî
 7. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử, cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, được một nghìn hai trăm thiệt công đức.

 Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam-lồ trên trời không món nào là chẳng ngon.
 Nếu được thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích.
 Lại các vị thiên-tử, thiên-nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luân thứ đệ, thảy đều đến nghe. Và các hàng Long, Long- nữ, Da-xoa, Da-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-ba nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lầu-la, Ca-lầu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-da nữ, vì để nghe pháp mà đều gần gũi cung kính cúng dường.
 Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-ba-di, Quốc-vương, Vương-tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển-luân-vương, đại Chuyển-luân-vương, bảy báu, nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp.
 Vì vị Bồ-Tát này khéo nói pháp, nên hàng Ba-la-môn, cư-sĩ, nhân dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh-văn, Bích-chi-Phật, Bồ-Tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phiá đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật Pháp, lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu.

 Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 8. Người đó lưỡi thanh tịnh

 Trọn không thọ vị xấu

 Người đó ăn uống chi

 Đều biến thành cam-lồ.

 Dùng tiếng hay thâm tịnh

 Ở trong chúng nói pháp

 Đem các nhân duyên dụ

 Dẫn dắt lòng chúng sanh

 Người nghe đều vui mừng

 Bày đồ cúng dường tốt.

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 Cùng A-tu-la thảy

 Đều dùng lòng cung kính

 Mà đồng đến nghe pháp

 Người nói kinh pháp đó

 Nếu muốn dùng tiếng mầu

 Khắp cùng cõi Tam-thiên

 Tuỳ ý liền được đến.

 Đại, Tiểu Chuyển-luân-vương

 Và nghìn con quyến thuộc

 Chấp tay lòng cung kính

 Thường đến nghe thọ pháp,

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 La-sát, Tỳ-xá-xà

 Cũng dùng lòng vui mừng

 Thường ưa đến cúng dường,

 Phạm-thiên-vương, Ma-vương,

 Tự-tại, Đại-tự-tại

 Các chúng trời như thế

 Thường đến chỗ người đó.

 Các Phật cùng đệ tử

 Nghe người nói tiếng pháp

 Thương nhớ giữ gìn cho

 Hoặc lúc vì hiện thân.
 9. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép được tám trăm thân công đức, được thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v.. đều hiện rõ trong đó.

 Và núi Thiết-vi, núi Đại-thiết-vi, núi Di-lâu, núi Đại-di-lâu..v.v.. các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu-Đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh- văn, Duyên-giác, Bồ-Tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng.
 10. Nếu người trì Pháp-Hoa

 Thân thể rất thanh tịnh

 Như lưu ly sạch kia

 Chúng sanh đều ưa thấy.

 Lại như gương sáng sạch

 Đều thấy các sắc tượng

 Bồ-Tát nơi tịnh thân

 Thấy cả vật trong đời

 Chỉ riêng mình thấy rõ

 Người khác không thấy được,

 Trong cõi nước tam-thiên

 Tất cả các chúng sanh

 Trời, người, A-tu-la

 Địa-ngục, quỷ, súc-sanh

 Các sắc tượng như thế

 Đều hiện rõ trong thân.

 Cung điện của các trời

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Núi Thiết-vi, Di-lâu

 Núi Ma-ha Di-lâu

 Các biển nước lớn thảy

 Đều hiện ở trong thân.

 Các Phật cùng Thanh-văn

 Phật tử Bồ-Tát thảy

 Hoặc riêng, hoặc tại chúng

 Nói pháp thảy đều hiện.

 Dầu chưa được diệu thân

 Pháp tánh sạch các lậu

 Dùng thân thanh tịnh thường

 Tất cả hiện trong đó.
 11. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Sau khi Đức Như-Lai diệt độ, nếu có người thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời được một nghìn hai trăm ý công đức.

 Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều thật tướng chẳng trái nhau.

 Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v. .. đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lòng nghĩ, tưởng, lòng động tác, lòng hý luận, thảy đều biết đó.

 Dầu chưa được trí huệ vô lậuý căn thanh tịnh như thế, người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là chẳng chân thật, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng:
 12. Ý người đó thanh tịnh

Sáng lanh không đục nhơ

Dùng ý căn tốt đó

Biết pháp : Thượng, trung, hạ

Nhẫn đến nghe một kệ

Thông đạt vô lượng nghĩa

Thứ đệ nói đúng pháp

Tháng, bốn tháng, đến năm.

Trong ngoài của cõi này

Tất cả các chúng sanh

Hoặc trời rồng và người

Dạ-xoa, quỉ, thần thảy

Kia ở trong sáu đường

Nghĩ tưởng bao nhiêu đều

Phước báo trì Pháp-Hoa

Đồng thời thảy đều biết.

Vô số Phật mười phương

Trăm phước tướng trang nghiêm

chúng sanh nói pháp

Đều nghe hay thọ trì.

Suy gẫm vô lượng nghĩa

Nói pháp cũng vô lượng

Sau trước chẳng quên lộn

Bởi thọ trì Pháp-Hoa

Trọn biết các pháp tướng

Theo nghĩa rõ thứ đệ.

Suốt danh tự ngữ ngôn

Như chỗ biết diễn nói.

Người đó có nói ra

Là pháp của Phật trước

Vì diễn nói pháp này

Ở trong chúng không sợ.

Người trì kinh Pháp-Hoa

Ý căn tịnh như thế

Dầu chưa được vô lậu

Trước có tướng dường ấy.

Người đó trì kinh này

An trụ bậc hy hữu

Được tất cả chúng sanh

Vui mừng mà mến kính.

Hay dùng nghìn muôn ức

Lời lẽ rất hay khéo

Phân biệt mà nói pháp

Bởi trì kinh Pháp-Hoa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43175)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43968)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43042)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49039)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39874)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53805)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36841)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40834)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49746)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47338)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27761)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25871)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29902)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21331)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23234)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29593)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34189)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30050)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20233)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20415)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15149)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23916)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34086)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 24012)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29208)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60174)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68758)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26381)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20830)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20077)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27567)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46460)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25602)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29280)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189060)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27446)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31157)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33180)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 24041)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25636)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26722)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36685)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27358)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30390)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37330)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23911)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 37000)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27627)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28348)
Công Phu Khuya
(Xem: 24168)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant