Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Di Giáo dịch thơ

17 Tháng Chín 201000:00(Xem: 27262)
Kinh Di Giáo dịch thơ

Kinh Di Giáo

Thành Tâm-Phan Khắc Nhượng dịch thơ



Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc,

Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh,

Kiều-trần-như được duyên lành,

Năm anh em họ viên thành lý chân,

Suốt đời sống xa gần phổ độ,

Người cuối cùng Phật độ chính là,

Ông già Tu-bạt-dà-la.

Ở rừng cây những Sa-la ngát vùng,

Người đáng độ đã từng được độ,

Đã đến hồi Phật bỏ sắc thân,

Niết bàn thế nhập xuất trần,

Nửa đêm yên ắng lặng tăm khắp trời.

1. Phật lên tiếng ra lời cốt lõi,

Để môn đồ mỗi mỗi soi đi,

Phật rằng: Này các tăng ni,

Sau tôi nhập diệt, nhớ ghi mấy điều:

Coi giới tựa người nghèo được của,

Như tối mù, mở cửa sáng ra,

Phải coi giới luật như là,

Người thày chỉ lối, khỏi sa lạc đường.

Giống như thể ta đương tại thế,

Phật ra đời cốt để vậy thôi,

Phải luôn giữ giới chớ rời:

Mướn người, buôn bán, chăn nuôi, chớ làm.

Chớ thu vén mùa màng, nhà cửa,

Chớ đua đòi tiền của nhân gian,

Chặt cây diệt cỏ chớ làm,

Chiêm tinh bói toán lại càng nên xa.

Chớ xem tướng hoặc là xem đất,

Luôn giữ mình chừng mực uống ăn,

Việc đời chớ thích để tâm,

Chú bùa, phụ nữ thân gần không nên.

Phải tâm niệm đoan nghiêm chánh trực,

Phải mong sao cho được độ mình,

Lỗi lầm che dấu không nên,

Chớ bày phép lạ cầu tin nơi người.

Với cúng thí biết vui vừa đủ,

Vật cúng dường tích trữ nào nên,

Đó là đôi chuyện giới nghiêm,

Cội căn giải thoát tự nền giới ra.

Giữ giới được mới qua thiền định,

Giới khơi dòng trí tuệ thâm uyên,

Khả năng diệt sự não phiền,

Nên cần mọi sự giữ gìn sạch trong.

Người phá giới đừng hòng công đức,

Giới là nơi công đức gửi vào,

Là nơi yên ổn hàng đầu,

Mọi điều công đức vin vào náu nương.

Các tăng ni, phải luôn thọ giới,

Năm căn cần giữ khỏi buông lung,

Giống như trâu phải canh chừng,

Cầm roi chớ để trâu ruồng lúa ai.

Như ngựa dữ không nài cương chặc,

Hẳn đưa người xuống vực chẳng chơi;

Cướp kia gieo khổ một thời,

Năm căn gieo họa bao đời ai hay.

Biết rõ mối nguy tai trầm trọng,

Chẳng thể không cẩn thận giữ gìn;

Với người trí tuệ nghiêm minh,

Năm căn đâu dễ xui mình chiều theo.

Giữ giới tựa giữ điều giặc dã,

Không thể nào buông thả được đâu;

Dù cho thỏa mãn cách nào,

Năm căn: (năm cửa) bao lâu mà còn.

Năm cửa bởi vọng lòng làm chủ,

Các ông nên khéo giữ vọng lòng;

Vọng lòng đáng sợ vô cùng,

So cùng nọc rắn miệng hùm khác chi.

Dẫu giặc lửa dễ gì sánh kịp,

Như người cầm chén mật mà đi,

Chăm chăm sợ đổ chứ gì,

Dưới chân nào biết một khi có hầm.

Như voi dữ phải cần móc sắt,

Nếu không thì hết sức hiểm nguy,

Giống như vượn khỉ khác chi,

Được cây chuyền bám dễ gì yên chân.

Giữ lòng an định rất cần,

Việc lành dù mấy khó khăn cũng thành.

Với thức ăn khi mình nhận được,

Phải coi dường uống thuốc vậy thôi,

Chẳng gì dở miệng ngon mùi,

Thứ ngon không thích dở thời không chê.

Miễn sao được khỏi bề đói khát,

Miễn sao là thể xác không nguy,

Miễn sao yên dạ tu trì,

Như ong hút mật chẳng hề hại hoa.

Chẳng phương hại sắc hoa tươi đẹp,

Tăng ni khi thọ thực cúng dường,

Cốt trừ khổ não tai ương,

Cầu nhiều phương hại lòng thương người đời,

Giống như thể những người trí tuệ,

Chẳng khiến trâu kiệt quệ làm nhiều.


Nghe đây hỡi các tăng ni,

Siêng năng tu tập thường đi pháp lành.

Đem năm canh giữ mình chớ bỏ,

Tụng kinh hầu tránh ngủ nửa đêm.;

Chớ vì ngủ nghỉ lãng quên,

Để đời vô ích êm đềm trôi luôn.

Hãy nhớ lửa vô thường đương đốt,

Hãy mau mau cứu vớt lấy mình,

Chớ ham ngủ nghỉ thường tình,

Não phiền rình rập giết mình như không.

Như kẻ thù vô cùng nguy hiểm,

Phải luôn luôn thức tỉnh đề phòng;

Não phiền rắn độc tương đồng,

Hiện đang ngủ nghỉ trong lòng các ông.

Nhà có rắn phải dùng móc sắt,

Móc giới vào đuổi phứt chúng đi.

Rắn ra ngủ mới yên bề.

Rắn còn mà ngủ còn chi thẹn bằng.

Biết thẹn tựa áo quần trang phục,

Cốt che người cho được trang nghiêm;

Khác nào móc sắt câu liêm,

Trị điều phi pháp đừng liên lụy mình.

Vậy tăng ni phải nên biết thẹn,

Mới mong lìa bất thiện dễ duôi,

Bỏ lòng biết thẹn ra rồi,

Bao nhiêu công đức đồng thời tiêu ma.

Có pháp lành chẳng qua biết thẹn,

Không thẹn thì thú vật khác chi.

Tăng ni ! Nếu kẻ nào vì,

Có gì xúc phạm có gì nhiễu nhương.

Ngay cả bị tổn thương thân thể,

Hãy kềm lòng chớ để hờn căm,

Lửa hờn đốt cháy thiện căn,

Giữ gìn không để nói năng độc mồm.

Lòng chớ để nổi cơn tức bực,

Khiến cho nhiều công đức tiêu tan.

Giới trì khổ hạnh đâu bằng,

Người từng nhẫn nhục thượng nhân đáng hàng.

Ai chưa thể vui cam nhẫn nhục,

Chịu miệng đời ác độc dồn cho,

Coi dường uống nước cam lồ,

Chưa là trí tuệ hống hồ thánh nhân.

Vì tức giận muôn phần nguy hại,

Phá căn lành hủy hoại lòng từ,

Đời này đời trước chẳng trừ,

Giận hờn còn giữ bao giờ vui đâu.

Biết tức giận khác nào lửa dữ,

Phải thường xuyên gìn giữ khỏi lòng.

Giặc ruồng công đức sánh cùng,

Do thì sân hận vẫn còn hơn xa.

Người thế tục chưa xa dục lạc,

Nên giận hờn còn được thứ tha;

Là người hành đạo xuất gia,

Đã rời dục lạc vậy mà hận sân;

Người như vậy thực tâm không đặng,

Có khác gì trời tạnh mây quang,

Bỗng dưng sấm động sét vang,

Rõ ràng chẳng xứng với màn trời xanh.

Này tăng ni ! muốn mình thành Phật,

Bỏ cửa nhà trang phục xuất gia;

Khoác vào chiếc áo cà-sa,

Mong cầu khắp nẻo gần xa cúng dường.

Chớ có ý đương đương tự đắc,

Cao ngạo gì cũng dứt nó đi,

Xuất gia vào đạo rồi thì,

Mong người bố thí từ bi cúng dường.

Người thế tục còn buông cao ngạo,

Huống chi là vào đạo xuất gia;

Mong cầu giải thoát nhớ là,

Hạ mình đây đó người ta cúng dường.

Này tăng ni ! Cái lòng xiểm xúc,

Trái đạo thì hãy vứt nó đi;

Dối gian súc xiểm còn thì,

Bao giờ thấy đạo diệu vi sáng đường.

Phải giữ gìn lòng luôn đoan chính,

Lấy thật thà gốc định thẳng ngay;


8. Tăng ni ! Nên biết thế này:

Mong cầu, ham muốn cho hay đừng nhiều.

Càng muốn nhiều càng điều khổ não,

Không mong cầu cứ đạo mà đi,

Mọi điều ham muốn ít thì,

Có gì đến nỗi sầu bi não phiền.

Được mỗi vậy còn nên tu tập,

Huống chi là công đức bao nhiêu;

Người mà ham muốn chẳng nhiều,

Đâu cần xu nịnh theo chiều vì ai,

Sáu căn cũng khó sai khó khiến,

Người tu hành ít muốn tâm an;

Chẳng còn sợ sệt hoang mang,

Phải hồi đến việc kiên gan đương đầu.

Không mong cầu lại hầu ít muốn,

Nết này đi sớm chứng Niêt-bàn.


9. Tăng ni muốn thoát buộc ràng,

Khỏi điều khổ não thế gian thường tình.

Hãy quán pháp tự mình biết đủ,

Biết đủ thì yên ổn vui tươi,

Đất bằng biết đủ cũng rồi,

Người không biết đủ dù nơi thiên đường.

Không biết đủ vô phương toại nguyện,

Giàu có nhưng vẫn tựa nghèo nàn,

Những người biết đủ rộng đàng,

Tuy nghèo nhưng vẫn hân hoan như giàu.

Người biết đủ dễ nào cam chịu,

Để thân vào nô lệ năm căn,

Người không biết đủ mê lầm,

Năm trò dục lạc thế trần khiến sai.

Khiến bia miệng mỉa mai chê trách,

Thật đúng là đáng xót đáng thương,

Pháp môn biết đủ rộng đường,

Cho người sớm được tỏ tường Chân Như.


Này tăng ni ! Người tu cầu đạt,

Tịch tịnh lòng an lạc vô vi,

Thế nên cần phải xa lìa,

Những nơi tụ họp hội hè huyên thuyên.

Một mình chỗ lặng yên tĩnh mịch,

Chỗ cõi trời Đề Thích, chư thiên,

Thảy đều kính trọng trang nghiêm,

Hãy nên xa chốn huyên thuyên hồng trần,

Hãy xa lánh lăng xăng hội chúng,

Để yên lòng cắt rụng khổ đau,

Tư duy trí tuệ nhiệm mầu,

Ham nhiều hội chúng khó cầu tâm yên.

Như cành cây nhiều chim quần tụ,

Hẳn có khi chuốc vạ: gãy cành,

Thế gian trói buộc giam mình,

Giữa dòng bể khổ đắm chìm đưa ra.

Như voi sa bãi sình bùn ngập

Đến bao giờ mới được thoát lên.

Đó là đức tình có tên,

‘Xa lìa’ ràng buộc nghiệp duyên hồng trần.


Này tăng ni ! Tinh cần chăm chỉ,

Chẳng việc gì không thể không xong,

Chuyên cần tinh tấn hết lòng,

Như là nước giỏ đá mòn khác chi.

Với tâm biếng nhác hành trì,

Như người cọ gỗ mong khi lửa bừng.

Gỗ chưa nóng, nửa chừng đã nghỉ,

Mong lửa mà có lửa được không?

Đó là đức tình gắng công.

Cũng là ‘Tinh Tấn’ dốc lòng không lơi.

Này tăng ni ! Cầu người tri thức,

Hay cầu ai trợ lực tận tình,

Sao bằng gìn giữ tâm mình,

Để cho vọng niệm không sinh não phiền.

Vậy tâm phải giữ gìn hết sức,

Chánh niệm rời công đức mất luôn,

Đã thành sức niệm kiên cường,

Dẫu vào giặc dục chẳng còn hề chi.

Như áo giáp mặc khi ra trận,

Được yên lòng khỏi sợ hiểm nguy,

Được không vọng niệm rồi thì,

Đó là đức tính có chi tốt bằng.

Này tăng ni ! Giữ tâm an định,

Tâm định rồi rõ sự diệt sanh,

Phải luôn tinh tấn lòng mình,

Kiên trì tu tập hành thiền không lơi.

Nếu tâm định xa rời náo loạn,

Như nước lên khéo chặn giữ bờ,

Tu hành cần trí có dư,

Định thiền tâm niệm chớ cho rịn rò.

Định là đức tình cơ hồ,

Giúp người rốt ráo sang bờ bên kia.


Này tăng ni ! Nếu người trí tuệ,

Hẳn đâu còn câu nệ chấp tham,

Tự mình xét việc đã làm,

Lòng thường tỉnh thức buộc ràng gỡ ra.

Dốc năng lực để mà giải thoát,

Nương theo điều giáo pháp Như Lai,

Nếu không trì tuệ đủ đầy,

Không sao gọi được như vầy xuất gia.

Chẳng thế gọi họ là thế tục,

Chẳng tên chi gọi được thứ này,

Chiếc thuyền trí tuệ xưa nay,

Giúp người vững chí ra ngoài tử sanh.

Là đèn rọi vô minh tan biến,

Là thuốc thần trị bệnh đảo điên,

Là gươm cắt đứt não phiền,

Trao dồi giác tuệ thường xuyên rất cần,

Nghe, hiểu, tu tăng cường lợi lạc,

Trí tuệ ngời mắt thịt cũng tinh,

Phải là trí tuệ quang minh,

Đó là đức tính tự mình sáng soi.

Này tăng ni ! Với người hí luận,

Chỉ khiến mình tâm loạn mà thôi,

Xuất gia chỉ vậy đâu rồi,

Không thành giải thoát ôi thôi buồn gì !

Tâm mê loạn chỉ vì hý luận,

Để vui vào tịch diệt chớ quên,

Loại trừ hý luận mới nên,

Đó là đức tính giữ mình hôm mai.

Này tăng ni ! Phải hoài tỉnh thức,

Tâm niệm về công đức gần xa,

Bỏ điều phóng túng hết ra,

Như là tránh giặc cướp nhà khác chi.

Lòng đại bi Phật vì khắp cả,

Mới lên lời hỉ xả này ra,

Những điều chánh pháp lợi ta,

Cùng là cứu cánh hầu qua Niết-bàn.

Phải nổ lực thực hành tinh tấn,

Dù sông hồ, rừng núi, gốc cây,

Dù trong tịnh thất hay ngoài,

Phải luôn nghĩ nhớ pháp này Phật ban.

Chớ chểnh mảng, lỡ làng qua mất,

Phương tiện nên tu tập cho rành,

Chuyên cần tinh tấn thực hành,

Để mình khỏi phí được sanh làm người.

Chớ để cả cuộc đời vô ích,

Khỏi sau này hối tiếc ăn năn,

Phật là thày thuốc tận tâm,

Biết rành bệnh lý, thuốc cần phải cho,

Mỗi bệnh trạng dặn dò mỗi loại,

Uống hay không đâu tại lỗi thày,

Phật như người chỉ đường ngay,

Chỉ phương giải thoát khỏi sai khỏi lầm.

Đường đã rõ chẳng năng cất bước,

Hỏi bao giờ mới được đến nơi,

Lỗi không bởi tại thày rồi,

Lỗi do biết lối nhưng lười chẳng đi.

17. Này tăng ni ! Bốn điều chân lý,

Các ông chưa hiểu ý chỗ nào,

Hãy nên hỏi lại rõ vào,

Thế Tôn chỉ dạy trước sau cho rành.

Thế Tôn nhắc ba lần như vậy,

Bốn chúng đều im lặng lắng nghe,

Chẳng ai thắc mắc gọi là,

Bấy giờ A-nậu - lâu-đà bước ra.

Bạch Thế Tôn: ‘Dù là trăng nóng,

Hay mặt trời lạnh cóng nay mai,

Bốn điều chân lý Như Lai,

Muôn đời vẫn vậy chẳng thay đổi gì.

Như ‘khổ đế’ cực kỳ thực tế,

Cõi trần đời dâu bể khổ đau,

Sanh già bệnh chết bao lâu,

Đã là quy luật khổ sầu nhân gian,

Thương yêu kết xa càng đau khổ,

Ghét nhau thì hội ngộ vui đâu,

Muốn ham chẳng toại hổ sầu,

Căn nguyên Tập đế: thương đau đời đời.

Do ái dục sinh sôi, chấp mắc,

‘Diệt đế’ là khổ cắt cho rơi,

Nguyên nhân đau khổ rã rồi,

Sáng đường ‘đạo đế’ an vui Niết-bàn.

15. Phật đã dạy rõ ràng rất mực,

Chẳng ai còn nghi hoặc điều chi,

Nhiều người chưa chứng được thì,

Nghe Phật nhập diệt sầu bi lệ tràn,

Người mới tu nghe ban lời ấy,

Càng ráng tu để thấy Niết-bàn,

Như đêm tăm tối kinh hoàng,

Bỗng lòe chớp sáng rõ ràng đường đi.

Người chứng quả đã lìa biển khổ:

Thầm nghĩ rằng Phật vội chi xa,

Lời Ngài A-nậu-lâu-đà:

Bốn điều chân lý Phật đà sáng soi.

Mọi người thấu hiểu cả rồi,

Đại bi Đức Phật ban lời, nói thêm:

Này tỳ kheo! Chớ nên bi thiết,

Đã sinh ra làm kiếp con người,

Hợp tan qui luật muôn đời,

Bao giờ hội hợp chẳng hồi ly tan?

Sự như vậy muôn ngàn không có,

Pháp lợi mình đâu đó đã thông,

Lợi người ta dạy đã xong,

Cho dù nán lại cũng không ích gì.

Cõi trời người ai kia đáng độ,

Thì bấy nay được độ cả rồi,

Ai chưa được độ đương thời,

Nhân duyên đã sẵn hẳn rồi cũng qua.

Nay đệ tử thay ta nối nghiệp,

Chỉ pháp thân bất diệt thường còn,

Thế gian muôn sự vô thường.

Hơp tan phải lẽ đừng thương đừng sầu.

Hãy tinh tấn sớm cầu giải thoát,

Trí tuệ làm gươm cắt mờ mê,

Thế gian đích thật hiểm nguy,

Rõ ràng muôn sự chẳng chi vững bền.

Nay nhập diệt bỏ đi bệnh dữ.

Bỏ cái thân ‘năm uẩn’ hợp này,

Tội tình nghiệp báo dãy đầy,

Người ta tạm gọi cái nầy là thân.

Giữa trầm luân sinh già bệnh chết,

Người trí mà đã dứt nó xong,

Ai không hoan hỉ tấc lòng,

Như trừ được giặc ai không vui mừng.

Này tăng ni ! Hãy dùng tha thiết,

Ráng tìm đường giải quyết sầu đau,

Thế gian to nhỏ trước sau,

Muôn loài vạn sự biết bao vô thường,

Các ông chớ cảm thương bi thiết,

Đã đến giờ nhập diệt Như Lai,

Đừng lời chi nữa dông dài,

Đến hồi thể nhập Niết-bàn Vô Dư,

Đó là những lời từ Phật dạy

Cũng là lời để lại sau cùng,

Phật-đà trí tuệ đại hùng,

Muôn đời soi sáng trùng trùng nhân gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43071)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43847)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42987)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48967)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39770)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53748)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36780)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40766)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49683)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47244)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27651)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25791)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29839)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27084)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24663)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21245)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23173)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23839)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22750)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29523)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20582)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34116)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24594)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29943)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20167)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20362)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15094)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23815)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34016)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23947)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29123)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60050)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27544)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68637)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24468)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26300)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20738)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19992)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27482)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46292)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25505)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29181)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188483)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27343)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31075)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33083)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23944)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25528)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26612)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36547)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 30313)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37214)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23852)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36872)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27547)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28284)
Công Phu Khuya
(Xem: 24118)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant