Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 1: Mở đầu

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9509)
Phẩm 1: Mở đầu

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

CUỐN 1

 

Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận Tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.

Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:

Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoatiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị Pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quan Âm, vị Đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

KINH PHÁP HOA

Phẩm 1: Mở đầu

Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế Tôn ở trong đỉnh Linh sơn, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỷ kheo mười hai ngàn vị, toàn là những bậc A La Hán mà sự sơ hở đã được tận diệt, sự phiền não không còn tái sanh, đã đạt được sự ích lợi của bản thân, đã dứt hết sự ràng buộc vào hiện hữu, tâm trí tự tại giải thoát. Tên các vị ấy là tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Đại Ca Diếp, tôn giả Tần Loa Ca Diếp, tôn giả Già Da Ca Diếp, tôn giả Na Đề Ca Diếp, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Chiên Diên, tôn giả A Nâu Lâu Đà, tôn giả Kiếp Tân Na, tôn giả Kiều Phạm Ba Đề, tôn giả Ly Bà Đa, tôn giả Tất Lăng Già, tôn giả Bạc Câu La, tôn giả Câu Hy La, tôn giả Nan Đà, tôn giả Tôn Đà Ra Nan Đà, tôn giả Phú Lâu Na, tôn giả Tu Bồ Đề, tôn giả A Nan Đà, tôn giả La Hầu La, đại loại như vậy, những vị A La Hánmọi người đều biết. Lại có hai ngàn vị tu học tiếp tụctu học hoàn tất, có Tỷ kheo ni Đại Thắng Sinh Chủ cùng với sáu ngàn người tùy thuộc, có thân mẫu tôn giả La Hầu LaTỷ kheo ni Trì Dự cùng với những người tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Chúng đại Bồ tát có tám mươi ngàn, toàn là những vị không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, được các pháp tổng trì, được các tài hùng biện mà trong đó có sự biện thuyết hoan hỷ, biện thuyết về pháp không thoái chuyển; đã phụng sự vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng các gốc rễ công đức ở nơi chư Phật ấây, và thường được chư Phật ấy tán dương; sửa mình bằng đức tính từ bi, khéo nhập vào tuệ giác Phật đà, thông suốt tuệ giác vĩ đại, đạt đến bờ bến bên kia; danh tiếng vang khắp vô lượng quốc độ, hoá độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Tên các vị ấy là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Thường Tinh Tấn, Bồ tát Bất Hưu Tức, Bồ tát Bảo Chưởng, Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dũng Thí, Bồ tát Bảo Nguyệt, Bồ tát Nguyệt Quang, Bồ tát Mãn Nguyệt, Bồ tát Đại Lực, Bồ tát Vô Lượng Lực, Bồ tát Việt Tam Giới, Bồ tát Hiền Hộ, Bồ tát Di Lạc, Bồ tát Bảo Tích, Bồ tát Đạo Sư, đại loại như vậy, tám mươi ngàn vị đại bồ tát đều đến tụ tập.

Chư Thiên thì có Đế Thích cùng hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, và bốn vị đại thiên vương, cùng mười hai ngàn thiên nhân tùy thuộc; Tự Tại thiên tử và Đại Tự Tại thiên tử cùng ba mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Phạn vương chủ thế giới hệ Kham nhẫn, cùng các Phạn vương đại loại Phạn vương Thi Khí, Phạn vương Quang Minh, và hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc, đều đến tụ tập. Các bộ khác thì có tám Long vương là Hỷ, Hiền Hỷ, Diêm Hải, Cửu Đầu, Đa Thiệt, Vô Nhiệt Não, Từ TâmHồng Liên Hoa, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Khẩn na la vương là Pháp và Diệu Pháp, Đại PhápTrì Pháp, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Càn thát bà vương là Nhạc và Nhạc Âm, Mỹ và Mỹ Âm, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc; có bốn A tu la vươngTối Thắng, Dục Cẩm, Yến Cư và Hấp Khí, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Ca lâu la vương là Đại Uy Đức, Đại Thân, Đại MãnNhư Ý, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Nhân loại thì có con Hoàng hậu Vi Đề HyHoàng đế A Xà Thế, cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc, cũng đến tụ tập.

Tất cả các chúng trên đây, mỗi chúng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi lui lại mà ngồi mỗi chúng một chỗ.

Vào lúc này, đức Thế Tôn được bốn chúng vây quanh, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương. Ngài nói cho các vị Bồ tát bản kinh Đại thừa tên Nghĩa Vô Lượng, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Thế Tôn vẫn ngồi xếp bằng ở ngay giữa đại hộinhập định. Vị trí của Nghĩa Vô Lượng, thân thểtâm trí đều không dao động. Ngay khi ấy chư thiên mưa xuống hoa mạn đà, hoa mạn đà lớn, hoa mạn thù, hoa mạn thù lớn, rải trên đức Thế Tôn và cả đại hội. Khắp cõi Phật này chấn động đủ cả sáu cách. Trong đại hội, bốn chúngTỷ kheoTỷ kheo ni, Ưu bà tắcƯu bà di; tám bộ là thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, toàn là những người không phải loài người, và các chúng khác mà trong đó có các vị quốc vương và các vị luân vương, hết thảûy các chúng như vậy đều được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, và chuyên chú chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Còn đức Thế Tôn thì từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn thế giới hệ ở về hướng đông, không thế giới hệ nào mà không chiếu soi dưới đến Vô gián ngục trên đến Sắc cứu cánh. Làm cho đại hộithế giới hệ này mà thấy hết chúng sinh trong sáu loài của các thế giới hệ ấy; lại thấy chư Phật hiện tại của các thế giới hệ ấy, nghe kinh pháp của chư Phật ấy nói, thấy bốn chúng, những người hành đạođắc đạo trong các thế giới hệ ấy; lại thấy các vị bồ tát đi theo đường đi của bồ tát bằng các thứ yếu tố, các cách tin hiểu và các loại hình thức; lại thấy chư Phật nhập diệt, thấy sau đó xá lợi của chư Phật ấy được đem ra xây dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quý báu mà tôn thờ.

Bấy giờ đức Di Lạc suy nghĩ, hôm nay đức Thế Tôn biểu hiện cảnh tượng thần biến. Vì lý do gì mà có điềm lành như vậy? Đức Thế Tôn đang nhập định, sự thể ngoài sự nghĩ bàn ấy biểu hiện cảnh tượng hiếm có này, ta nên hỏi ai, ai giải đáp được? Đức Di Lạc lại nghĩ, bồ tát Văn Thù, vị thái tử của đức Pháp vương, đã từng thân gần phụng sự vô lượng chư Phật quá khứ, tất đã thấy được cảnh tượng hiếm có này, vậy ta nên hỏi người. Cùng lúc, cả bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, ai cũng nghĩ rằng, cảnh tượng thần biến biểu hiện bởi ánh sáng của đức Thế Tôn như vầy, nên đem hỏi ai? Đức Di Lạc muốn giải quyết nghi ngờ của mình, lại xét tâm trí của cả đại hội, nên hỏi bồ tát Văn Thù, vì lý do nào mà có điềm lành _ có cảnh tượng thần biếnđức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, làm cho đại hội ở đây mà thấy hết mọi sự huy hoàng của các cõi Phật ấy? Đức Di Lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên hỏi bồ tát Văn Thù bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Văn Thù đại sĩ,

lý do nào

đức Thế Tôn,

vị thầy dẫn đạo,

từ nơi lông trắng

giữa hai đầu mày,

phóng ánh sáng lớn

chiếu soi khắp cả?

(2) Chư thiên mưa xuống

bao nhiêu hoa quí

mạn đà mạn thù,

và thổi làn gió

hơi thơm đàn hương,

đẹp lòng đại hội.

(3) Vì vậy mặt đất

cả quốc độ này

rực rỡ huy hoàng,

và cả quốc độ

đều chấn động lên

đủ hết sáu cách.

Làm cho bốn chúng

hoan hỷ tất cả,

cơ thể tâm trí

đều thấy thích thú,

cảm nhận sự thể

chưa bao giờ có.

(4) Chỉ một ánh sáng

phóng từ lông trắng

giữa hai đầu mày

chiếu soi hướng đông,

mà khiến một vạn

tám ngàn quốc độ

đều như màu sắc

ánh từ vàng ròng.

(5) Trong các quốc độ

được chiếu như vậy,

từ Vô gián ngục

đến Sắc cứu cánh,

hết thảy chúng sinh

thuộc cả sáu loài

sinh từ loài này

chết đến loài khác,

(6) hành vi lành dữ,

kết quả tốt xấu,

quốc độ này

mà thấy rõ cả.

(7) Lại thấy chư Phật,

chúa của thánh hiền,

tuyên thuyết kinh pháp

tinh túy bậc nhất,

bằng tiếng trong thanh

xuất lời hòa nhã

mà dạy bồ tát

vô số ức vạn.

(8) Bằng tiếng Phạn thiên

thâm thúy kỳ diệu

khiến người thích nghe,

chư Phật ở nơi

quốc độ của mình

diễn giảng chánh pháp,

vận dụng vô số

yếu tố, ví dụ,

soi sáng chánh pháp

thức tỉnh chúng sinh:

(9) Ai bị khổ não,

chán già bịnh chết,

thì nói cho họ

về pháp niết bàn,

để họ diệt tận

biên cương khổ não.

(10) Ai có phước đức

từng hiến cúng Phật,

chí cầu đạt được

chân lý cao hơn,

thì nói cho họ

về pháp duyên giác.

(11) Còn các con Phật

làm mọi hạnh nguyện

để cầu thành tựu

tuệ giác vô thượng,

thì nói cho họ

tuệ giác trong suốt.

*

(12) Văn Thù đại sĩ,

tôi ở nơi đây

mà thấy và nghe

đến như thế đó,

có ngàn ức việc.

Việc nhiều như vậy

nay tôi chỉ kể

một cách vắn tắt.

(13) Tôi thấy bồ tát

như cát sông Hằng,

của trong tất cả

thế giới hệ ấy,

đem mọi yếu tố

cầu tuệ giác Phật.

(14) Có người thực hành

hạnh nguyện bố thí:

bạc, vàng, san hô,

chân châu, ma ni,

xa cừ, mã não,

kim cương, của quí,

tôi tớ, xe thuyền,

vật để cỡi, chở,

(15) xe liễn, xe dư

trang hoàng vàng ngọc,

cũng rất hoan hỷ

mà đem hiến cho,

rồi hồi hướng cả

về nơi trí Phật,

(16) nguyện được xe Phật

cỗ xe bậc nhất

trong cả ba cõi,

được Phật tán dương.

(17) Hoặc có bồ tát

cho xe quí báu

kéo bởi bốn ngựa,

lại có lan can

mui trần hoa mỹ

mái riềm trang hoàng.

(18) Lại thấy bồ tát

cho thân cho thịt

cho tay cho chân

cho cả vợ con,

quyết chí đạt đến

tuệ giác vô thượng.

(19) Lại thấy bồ tát

cho đầu cho mắt

cho cả thân thể _

cho mà vui thích,

để cầu thành tựu

tuệ giác Phật đà.

(20) Văn Thù đại sĩ,

tôi thấy vua chúa

đi đến chỗ Phật

hỏi pháp vô thượng,

rồi từ bỏ liền

đất nước thịnh vượng,

bỏ cả cung điện

đình thần hậu phi,

(21) cạo sạch râu tóc

mà mặc pháp y.

(22) Hoặc thấy bồ tát

mà làm tỷ kheo,

chỉ ở một mình

nơi chỗ thanh vắng,

vui vẻ thích thú

đọc tụng kinh điển.

(23) Lại thấy bồ tát

dũng mãnh tinh tiến,

vào chốn núi sâu

suy nghĩ trí Phật.

(24) Lại thấy bồ tát

tách rời dục vọng,

thường xuyên trú ở

những chỗ trống vắng,

tu sâu thuyền định

được năm thần thông.

(25) Lại thấy bồ tát

chân đứng vững vàng

tư tưởng tập trung

hai tay chắp lại,

đem cả ngàn vạn

bài văn chỉnh cú

hoan hỷ ca tụng

các đấng Pháp vương.

(26) Lại thấy bồ tát

trí sâu, nhớ chắc

có thể thưa hỏi

chánh pháp nơi Phật,

nghe rồi tiếp nhận

ghi nhớ đủ cả.

(27) Lại thấy con Phật

đủ cả định tuệ,

áp dụng vô số

mọi sự ví dụ,

diễn giảng chánh pháp

cho các chúng khác;

(28) lại vui thuyết pháp

giáo hóa bồ tát,

chiến thắng ma vương

và binh đội nó,

rồi gióng lớn lên

tiếng trống chánh pháp.

(29) Lại thấy bồ tát

vắng bặt im lặng,

trời rồng cung kính

không lấy làm mừng.

(30) Lại thấy bồ tát

ở trong núi rừng

mà phóng ánh sáng

cứu khổ địa ngục,

thức tỉnh cho họ

hướng vào trí Phật.

*

(31) Lại thấy con Phật

chưa từng ngủ nghỉ,

kinh hành trong rừng

siêng cầu trí Phật.

(32) Lại thấy có vị

giới pháp đầy đủ,

uy nghi vẹn toàn,

sạch sẽ trong suốt

in như ngọc quí

để cầu trí Phật.

(33) Lại thấy con Phật

trụ vào sức nhẫn,

bao kẻ thượng mạn

mắng nhiếc đánh đập

vẫn nhẫn được cả

để cầu trí Phật.

(34) Lại thấy bồ tát

từ bỏ trò chơi,

bỏ luôn những kẻ

thân thuộc ngu dốt,

chỉ biết thân gần

những người thánh trí,

(35) chuyên nhất tâm ý

trừ bỏ loạn động,

trú ở núi rừng

tập trung tư tưởng,

trải qua ức vạn

những năm như vậy

để cầu thành tựu

tuệ giác Phật đà.

(36) Hoặc thấy bồ tát

cỗ bàn quí trọng,

thức uống, đồ ăn,

các loại dược phẩm,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(37) Y phục danh tiếng

thượng hảo hạng,

giá trị ngàn vạn

hoặc đến vô giá,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(38) Nhà cửa quí báu

bằng gỗ đàn hương,

trong đó đồ nằm

rất tốt và đẹp,

nhà và đồ ấy

nhiều đến vạn ức,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(39) Vườn rừng quang đãng,

trong đó đủ cả

hoa trái tốt nhiều,

suối chảy ao tắm,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(40) Đồng đẳng như vậy,

họ đem hiến cúng

đủ hết những thứ

rất là tinh tế,

mà lòng hoan lạc

không biết nhàm chán,

chí quyết đạt đến

tuệ giác vô thượng.

(41) Hoặc có bồ tát

bằng nhiều minh chứng,

nói về nguyên lý

tuyệt đối vắng lặng,

huấn dụ vô số

các loại chúng sinh.

(42) Hoặc thấy bồ tát

xét thấy bản thể

tất cả vạn hữu

in như hư không:

không những khái niệm

thuộc về nhị biên.

Lại thấy con Phật

tâm không vướng mắc,

đem tuệ mầu này

cầu tuệ vô thượng.

*

(43) Văn Thù đại sĩ,

có những bồ tát

Phật nhập diệt rồi

hiến cúng xá lợi.

(44) Lại thấy con Phật

dựng bao chùa tháp

nhiều bằng Hằng sa

tô điểm quốc độ.

(45) Tháp thì tráng lệ,

làm bằng bảy báu,

chiều cao có đến

năm ngàn do tuần,

chu vi rộng đến

hai ngàn do tuần.

(46) Mỗi một chùa tháp

cờ phan cả ngàn,

màn được kết ngọc,

chuông nhỏ hòa reo,

tám bộ thiên long,

loài người loài khác,

thường đem hiến cúng

hoa hương, kịch nhạc.

(47) Văn Thù đại sĩ,

những con Phật ấy

chính vì hiến cúng

xá lợi của Phật

mà cố trang hoàng

những ngôi chùa tháp,

nên cả quốc độ

tự nhiên tráng lệ

tuyệt diệu tuyệt hảo,

in như cây chúa

của trời Đế Thích

toàn bộ nở hoa.

*

(48) Thế Tôn chỉ phóng

một đường ánh sáng

mà làm cho tôi

và cả đại hội

thấy quốc độ này

đủ mọi vẻ đẹp.

(49) Những thần thông lực

của đức Thế Tôn

thật là hiếm có:

chỉ phóng một đường

ánh sáng rực rỡ

mà chiếu khắp cả

vô lượng quốc độ.

(50) Làm cho chúng tôi

nhìn cảnh tượng này

ai cũng cảm được

sự chưa từng có.

Phật tử Văn Thù,

xin hãy giải thích

cho nỗi nghi ngờ

của cả đại hội.

(51) Tất cả bốn chúng

thích thú trông ngóng,

nhìn vào nhân giả

và nhìn vào tôi.

(52) Ai cũng muốn biết

tại sao Thế Tôn

phóng ra ánh sáng

đến như thế này?

(53) Phật tử Văn Thù,

hãy đáp ứng gấp,

giải tỏa nghi ngờ

cho họ hoan hỷ:

ích lợi nào

đức Thế Tôn

phóng ra ánh sáng

đến như thế này -

(54) Chánh pháp tinh túy

đức Thế Tôn

đã chứng ngộ được

trong khi mới ngồi

nơi bồ đề tràng,

ngài muốn tuyên thuyết

về chánh pháp ấy,

hay muốn thọ ký?

(55) Ánh sáng Thế Tôn

đã làm hiện ra

cho chúng tôi thấy

bao nhiêu cõi Phật

đẹp và sáng lên

với những ngọc quí,

lại được thấy cả

chư vị Phật đà,

thì đó không phải

sự kiện nhỏ.

(56) Văn Thù đại sĩ,

nên biết tất cả

bốn chúng tám bộ

và các chúng khác,

nhìn xem nhân giả

nói cho rhế nào?

Lúc ấy bồ tát Văn Thù nói với đức Di Lạc, và các vị đại sĩ khác, chư vị thiện nam tử, theo tôi suy xét thì đức Thế Tôn hiện nay muốn nói chánh pháp vĩ đại, đổ mưa chánh pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại, diễn nghĩa chánh pháp vĩ đại. Chư vị thiện nam tử, nơi chư Phật quá khứ, tôi đã từng thấy điềm lành như vậy. Các ngài phóng ra ánh sáng này rồi là nói về chánh pháp vĩ đại. Do đó, chư vị nên biết, đức Thế Tôn hiện nay phóng ra ánh sáng thì cũng sẽ làm như vậy. Muốn làm cho chúng sinh ai cũng nghe biết được cái pháp mà cả thế gian đều khó tin, nên đức Thế Tôn biểu hiện điềm lành như vầy.

Chư vị thiện nam tửû, như trong quá khứ, lâu đến rất nhiều thời kỳ vô số, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đủ mười đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giáùc hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Ngài tuyên thuyết chánh pháp một cách phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo, nghĩa lý sâu xa, lời tiếng tuyệt diệu, thuần nhất không tạp, đủû hết sắc thái phạn hạnh trắng trong. Ấy là người cầu Thanh văn thì nói mà đáp ứng bằng bốn chân lý, để họ vượt qua sinh, già, bịnh, chết, cứu cánh niết bàn; người cầu Duyên giác thì nói mà đáp ứng bằng mười hai duyên khởi; còn các vị Bồ tát thì nói mà đáp ứng bằng sáu ba la mật, làm cho họ được tuệ giác vô thượng, nghĩa là thành bậc Tuệ giác biết tất cả.

Kế đó lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, kế đó nữa lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy có hai mươi ngàn đức Phật đều cùng một tên, tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, và cùng một họ, họ Phả La Đọa. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, đức Phật đầu tiên cũng như đức Phật cuối cùng đều cùng một tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, cùng đủ mười đức hiệu, và pháp mà các ngài tuyên thuyết cũng phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo. Đức Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám vương tử, thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bảo Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Cả tám vương tử đều uy đức tự tại, thống lãnh bốn đại lục. Khi nghe phụ hoàng xuất gia, thành tựu tuệ giác vô thượng, thì tám vương tử ấy cùng bỏ ngôi vua mà xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường hành phạn hạnh, và cùng làm pháp sư, vì đã từng gieo trồng các gốc rễ điều lành ở nơi ngàn vạn đức Phật. Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng đã nói bản kinh Đại thừa tên Nghiã Vô Lượng, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Phật ấy cũng đã ở ngay giữa đại hộingồi xếp bằng, nhập định vị trí của nghiã vô lượng, thân thểtâm trí đều không dao động. Lúc ấy chư thiên cũng mưa xuống hoa Mạn Đà, hoa Mạn Đà lớn, hoa Mạn Thù, hoa Mạn Thù lớn, rải trên đức Phật và cả đại hội. Khắp cõi Phật này cũng chấn động đủ hết sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, hết thảy các chúng như vậy cũng được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, chuyên chúchiêm ngưỡng đức Phật. Còn đức Phật thì cũng từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, không cõi Phật nào mà không chiếu soi khắp cả, y như những cõi Phật mà ngày nay chư vị đang thấy.

Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, trong đại hội lúc ấy có hai mươi ức bồ tát ưa thích nghe pháp. Các vị bồ tát này thấy ánh sáng của Phật chiếu khắp các cõi Phật như vậy thì cũng được sự chưa từng có, và cũng muốn biết mục đích của ánh sáng ấy. Bấy giờ có một vị bồ tát tên Diệu Quang, có tám trăm đệ tử. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xuất định, nhân bồ tát Diệu Quang mà nói bản kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói đến sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ, không đứng dậy khỏi pháp tòa. Đại hội thính giả lúc ấy cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ mà thân thểtâm trí đều bất động, nghe đức Phật nói thì cho rằng chỉ bằng thì gian một bữa ăn. Cả đại hội không một ai mà thân thể hay tâm trí sinh nhác sinh mệt. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa trong sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ rồi, liền ở giữa đại hội các chúng phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, và chư thiên, nhân loại, tu la, tuyên ngôn rằng giữa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết bàn hoàn toàn.

Bấy giờ có bồ tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký cho, bằng cách nói với chư vị Tỷ kheo, rằng vị bồ tát Đức Tạng này sẽ kế tiếp làm Phật, danh hiệu Tịnh Thân, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và kháép. Thọ ký rồi, ngay giữa đêm ấy, đức Phật nhập niết bàn hoàn toàn. Sau đó bồ tát Diệu Quang ghi nhớ Pháp Hoa, diễn giảng cho người trọn tám mươi thời kỳ bậc nhỏ. Tám vương tử con đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn thờ bồ tát Diệu Quang làm thầy, bồ tát ấy giáo hóa, làm cho tám vương tử vững chắc đối với tuệ giác vô thượng. Tám vương tử, sau đó, phụng sự rất nhiều ức đức Phật rồi, được thành Phật cả, và vị thành Phật cuối cùng danh hiệu là Nhiên Đăng. Trong tám trăm đệ tử của bồ tát Diệu Quang, có một vị tên là Cầu Danh, đam mê danh lợi, dẫu cũng đọc tụng kinh pháp mà không thông suốt, phần nhiều quên mất, nên mới có cái tên Cầu Danh. Nhưng vị này cũng nhờ sự gieo trồng các gốc rễ điều lành mà được gặp rất nhiều ức đức Phật, hiến cúng, cung kính, tôn trọngtán dương. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết bồ tát Diệu Quang lúc ấy đâu phải ai khác, mà chính là tôi đây, còn bồ tát Cầu Danh thì chính là đại sĩ. Ngày nay thấy điềm lành như vầy so với ngày xưa không khác gì cả, nên tôi nghĩ rằng đức Thế Tôn hiện nay sẽ tuyên thuyết về bản kinh Đại thừa tên là Pháp Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn.

Lúc ấy, ở giữa đại hội, bồ tát Văn Thù muốn lập lại ý nghiã đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(57) Tôi nhớ quá khứ

vô số thời kỳ,

đức Phật đà,

bậc tôn cao nhất,

danh hiệu ngài là

Nhật Nguyệt Đăng Minh.

(58) Đức Phật đà ấy

tuyên thuyết chánh pháp

hóa độ vô lượng

các loại chúng sinh,

vô số ức

các vị Bồ tát,

làm cho vào được

tuệ giác Phật đà.

(59) Có tám vương tử

con của Phật sinh

lúc chưa xuất gia,

thấy Phật xuất gia

cũng xuất gia theo

thực hành phạn hạnh.

(60) Bấy giờ Phật nói

bản kinh đại thừa

tên Nghĩa Vô Lượng,

giảng giải rộng rãi

nghĩa lý vô lượng

cho cả đại hội.

(61) Phật tuyên thuyết xong

bản kinh ấy rồi,

liền ngồi xếp bằng

ngay trên pháp tòa,

nhập định Vị trí

của nghĩa vô lượng.

(62) Chư thiên mưa xuống

hoa mạn đà la,

và trống chư thiên

tự kêu vang rền;

tám bộ thiên long

dùng hoa trống ấy

hiến cúng lên bậc

tôn cao nhất người.

(63) Toàn cõi Phật này

đồng thời chấn động.

Và rồi đức Phật

phóng ra ánh sáng

từ nơi lông trắng

giữa hai đầu mày,

biểu hiện đủ cả

cảnh tượng hiếm có.

*

(64) Ánh sáng như vậy

chiếu soi một vạn

tám ngàn cõi Phật

ở về hướng đông,

biểu hiện cho thấy

tất cả những chỗ

các loại chúng sinh

sinh ra chết đi,

hành động lành dữ,

hưởng chịu tốt xấu.

(65) Lại được nhìn thấy

có những cõi Phật

toàn thể trang hoàng

bằng bao vàng ngọc,

ánh lên màu sắc

lưu ly pha lê;

đại hội thấy được

đến như thế này

là do ánh sáng

của Phật chiếu soi.

(66) Lại thấy tất cả

tám bộ thiên long

cùng với nhân loại

tại mỗi quốc độ

cùng nhau hiến cúng

đức Phật của mình.

(67) Lại thấy chư Phật

tự thành Phật tuệ,

thân như núi vàng

cực kỳ tráng lệ.

Các ngài ở giữa

đại hội thánh hiền

diễn giảng nghĩa ý

của pháp sâu xa,

thì trông giống như

những tượng vàng thật

hiện trong các khối

lưu ly trong suốt.

(68) Trong mỗi cõi Phật,

thanh văn vô số,

cũng nhờ ánh sáng

của Phật chiếu soi

mà thấy rõ cả

chúng thanh văn ấy.

(69) Thấy chư tỷ kheo

ở trong núi rừng,

tinh tiến giữ giới

như giữ ngọc sáng.

(70) Lại thấy bồ tát

nỗ lực bố thí

kiên trì nhẫn nhục,

số bồ tát ấy

nhiều như hằng sa

mà thấy được cả,

là do ánh sáng

của Phật chiếu soi.

(71) Thấy các bồ tát

tinh tiến nhập định

một cách sâu xa,

thân tâm bất động,

đem thiền định ấy

cầu trí vô thượng.

(72) Thấy các bồ tát

biết rất thấu suốt

thật tướng vắng lặng

của tất cả pháp,

thuyết thật tướng ấy

nơi quốc độ mình,

đem bát nhã này

cầu thành trí Phật.

(73) Bấy giờ bốn chúng

được thấy đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

biểu hiện thần lực

đến như thế ấy,

lòng họ hoan hỷû

và cùng hỏi nhau,

rằng cảnh tượng này

lý do nào

mà Phật biểu hiện?

*

(74) Khi ấy đức Phật,

đấng mà trời người

ai cũng tôn thờ,

vừa mới xuất định,

tức thì khen ngợi

bồ tát Diệu Quang:

(75) Ông là con mắt

của cả thế gian!

Ai cũng qui về

tin tưởng nơi ông!

Ông kính giữ được

kho tàng chánh pháp!

Kho tàng chánh pháp

mà rồi Như Lai

sẽ nói hết ra,

chỉ ông chứng biết!

(76) Đức Phật khen ngợi

làm cho bồ tát

Diệu Quang hoan hỷ,

rồi nói Pháp Hoa

suốt hết sáu mươi

thời kỳ bậc nhỏ.

(77) Và pháp tối thượng

tuyệt diệu như vậy

được Phật tuyên thuyết

mà không đứng dậy

rời khỏi pháp tòa,

pháp sư Diệu Quang

vẫn tiếp nhận được

và ghi nhớ cả.

(78) Đức Phật tuyên thuyết

về kinh Pháp Hoa

làm cho các chúng

hoan hỷ cả rồi,

liền trong ngày ấy

ngài bảo các chúng:

(79) Thật tướng các pháp

Như Lai đã đem

nói cho các người.

Giữa đêm hôm nay

Như Lai sẽ nhập

niết bàn hoàn toàn.

(80) Các người cần phải

một lòng tinh tiến

chuyên chú vào pháp

Như Lai đã nói,

còn sự phóùng dật

nên tránh thật xa;

vì lẽ chư Phật

rất là khó gặp,

vạn ức thời kỳ

mới thấy một lần.

(81) Đệ tử của Phật

nghe Phật loan báo

sắp sửa nhập diệt,

ai cũng đau buồn

nghĩ Phật nhập diệt

sao mà mau chóng.

(82) Vị chúa thánh triết

và vua các pháp

an ủi các chúng:

sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi

các người đừng lo.

(83) Bồ tát Đức Tạng

tâm trí thấu triệt

thật tướng thuần khiết,

sẽ kế Như Lai

thành đức Phật đà

danh hiệu Tịnh Thân,

và cũng hóa độ

vô lượng các chúng.

(84) Rồi giữa đêm ấy

đức Phật nhập diệt

như củi mà hết

thì lửa cũng tắt.

Sau đó xá lợi

được phân bủa ra

xây dựng lên

vô số bảo tháp.

(85) Chư vị tỷ kheo

tỷ kheo ni

số lượng nhiều đến

như cát sông Hằng,

lại càng nỗ lực

tinh tiến hơn lên

để cầu đạt được

tuệ giác vô thượng.

*

(86) Phần ngài Diệu Quang,

pháp sư bồ tát,

kính giữ kho tàng

chánh pháp của Phật,

trải qua tám mươi

thời kỳ bậc nhỏ

tuyên thuyết rộng rãi

Diệu Pháp Liên Hoa.

(87) Còn tám vương tử

thì nhờ bồ tát

Diệu Quang khai hóa,

tất cả đều được

vững chắc đối với

tuệ giác vô thượng,

nên sau gặp được

vô số Phật đà.

(88) Các vị phụng sự

chư Phật như vậy,

cùng nhau đi theo

con đường vĩ đại,

nên kế tiếp nhau

được thành Phật cả,

và theo thứ tự

thọ ký cho nhau.

(89) Đức Phật cuối cùng,

vị trời nhất trời,

danh hiệu ngài là

Nhiên Đăng Như Lai,

bậc thầy dẫn đạo

các vị hiền triết,

độ cho giải thoát

vô số các chúng.

(90) Pháp sư Diệu Quang

có một đệ tử

tính thường biếng nhác

đam mê danh lợi,

(91) cầu hồ danh lợi

một cách không chán,

nên hay giao du

với nhà dòng dõi,

bỏ bê kinh pháp

đã được tụng tập,

nên hay quên mất

chứ không thông suốt.

(92) Vì lý do ấy

có tên Cầu Danh.

(93) Nhưng cũng thực hành

đủ các pháp lành,

gặp được vô số

chư vị Phật đà,

phụng sự hiến cúng

Phật đà như vậy

và cũng đi theo

con đường vĩ đại,

hoàn thiện sáu pháp

đến bờ bên kia,

nên nay lại gặp

Sư tử họ Thích.

(94) Thì gian sau ngài,

sẽ kế làm Phật

với danh hiệu

Di Lạc từ tôn,

cứu độ rộng rãi

các loại chúng sinh

mà số lượng ấy

không thể tính kể.

*

(95) Sau khi đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

nhập niết bàn rồi,

người hay biếng nhác

chính là đại sĩ,

còn vị pháp sư

bồ tát Diệu Quang

bản thân tôi.

(96) Chính tôi xưa kia

Ở nơi đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

đã từng thấy được

điềm lành ánh sáng

như tôi vừa nói.

(97) Vì vậy tôi biết

Thế Tôn ngày nay

chủ ý muốn nói

về kinh Pháp Hoa.

(98) Cảnh tượng hiện nay

giống điềm lành cũ,

và là phương tiện

của chư Thế Tôn:

Thế Tôn ngày nay

phóng ánh sáng lớn

là để hổ trợ

phát hiện thật tướng.

(99) Chư vị nên biết

chủ ý như vậy,

và hãy chắp tay

nhất tâm mà chờ.

Thế Tôn sẽ đổ

nước mưa chánh pháp,

sung túc những người

cầu tuệ giác Phật.

(100) Tất cả những người

cầu ba cỗ xe

nếu có điều gì

hoài nghi hối tiếc,

thì vị Toàn giác

sẽ giải trừ cho -

giải trừ sạch hết,

không còn sót lại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15547)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13140)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13571)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12488)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12091)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12898)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12987)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13217)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21338)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143673)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15674)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81283)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19583)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20212)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19239)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15145)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13027)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13132)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48970)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14762)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18586)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16385)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19364)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28036)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22155)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23297)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64775)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33196)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40168)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27317)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74892)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36120)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48981)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31014)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33925)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58816)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46255)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43807)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43217)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45916)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48017)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34615)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52921)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40447)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43469)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28684)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31878)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28799)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33348)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29115)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60969)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37354)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26827)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42637)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant