Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại

30 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10094)
03. Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại

KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG

Thích Nhất Hạnh Việt dịch

Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại
Dịch từ Phẩm Nê Hoàn thứ 36 trong Kinh Pháp Cú Hán tạng

Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana). Trong bản dịch, có chữ trời phương ngoại. Trời phương ngoại là cái không gian vượt ra ngoài không gian, chữ Hán gọi là thiên ngoại thiên hay phương ngoại phương. Phương là không gian, phương ngoại là ngoài không gian, nghĩa là không gian nằm ngoài không gian. Rong chơi trời phương ngoại là đi chơi trong thế giới không gian ngoài không gian. Trong không gian này không có sinh, không có diệt, khống có tới, không có đi, không có còn, không có mất, không có ta, không có người, không có sự phân biệt kỳ thị. Không gian đó bao la vô cùng, gọi là Niết Bàn.

1.
Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ
Niết bàn là cái mà Bụt khen ngợi là cao đẹp nhất.
Buông bỏ nếp sống trần tục, sống đời phạm hạnh, không phạm giới,
Làm lắng dịu được tâm ý, thì không có gì có thể xâm phạm được đến mình.

2.
Không bệnh là cái lợi tức lớn nhất
Tri túc là cái giàu có to nhất
Trung thực là người bạn tốt nhất
Niết bàn là cái hạnh phúc cao nhất.

3.
Đói là cái bệnh khó chịu đựng nhất
Tâm hành là cái gây khổ đau nhiều nhất
Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu
Thì Niết bàn là cái lạc thú lớn nhất.

4.
Ở đời, ít người được đi trên nẻo thiện,
Trong khi ấy, kẻ đi trên đường ác thì nhiều.
Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu
Thì Niết bàn là nơi an toàn nhất.

5.
Các cõi trời do tạo tác nhân lành mà mình được sinh lên,
Các ác đạo cũng do ác nhân mà mình bị đọa xuống
Niết bàn cũng như thế
Do nhân duyên tu tập mà có Niết bàn.

6.
Hươu nai nương đồng quê
Chim chóc nương trời mây
Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện
Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi.

7.

Thấy được cái không trước, không sau
Không là, không không
Cái đó là vô đắc
Cũng là cái không thể tư duy được.

8.
Tâm khó thấy, nhưng thói quen có thể nhận ra,
Kẻ nhận diện được dục ý thấy được đầy đủ rằng
Không tìm thú vui trong dục lạc thì tránh được mọi thứ khổ
ái dục luôn luôn làm tăng trưởng niềm đau.

9.
Sáng suốt, không để cho tâm ý bị nhiễm ô
Một khi đã được thanh tịnh hóa thì chế ngự được mọi dục ý.
Lúc ấy không còn phải tiếp cận với thế giới đau khổ nữa
Tuy rằng thấy thì vẫn thấy, nghe thì vẫn nghe,
Nhớ thì vẫn nhớ, và biết thì vẫn biết.

10.
Đạt được cái vô trướcvô phân biệt,
Một khi buông bỏ được mọi ý niệm rồi thì sẽ vào được cõi ấy
Vượt thắng được ý niệm về ngã,
Điều phục được các tâm hànhtác dụng gây đau nhức
Và dứt bỏ được hoàn toàn cái tập khí nhận thức phân biệt kỳ thị, thì khổ đau không còn.

11.
Ở trong hoàn cảnh động mà giữ được tâm thanh hư thì vẫn là tĩnh
Trong cái động, không tiếp cận được Niết bàn, cũng không có an lạc.
Ý niệm về cái vui và cái khổ đã vượt qua rồi thì mới thực sự có cái tịch tĩnh
Vượt qua được cái ý niệm tịch tĩnh thì sẽ không còn cái qua lại nữa.

12.
Cái qua lại đã hết, thì cái sinh tử cũng hết
Sinh tử hết thì làm gì còn phân biệt cái này cái kia ?
Cái này và cái kia, cả hai ý niệm đều chấm dứt
Cái tịch diệt tuyệt đối là cái vắng mặt của cảnh giới đau khổ.

13.
Vị tỳ khưu vì có ý niệm về hữu nên thấy có thời giankhông gian
Vì cái hữu ấy cho nên mới có hành động tạo tác
Cái ý niệm hữu vô sinh ra cái hữu vô
Nếu không có cái tác thì làm gì có cái sở tác ?

14.
Chỉ khi đạt được vô niệm
Mới có thể tới được Niết bàn
Nếu đã là vô sinh thì không còn hữu nữa
Lúc ấy không còn tác, cũng không còn hành.

15.
Thấy có sinh, có hữu, có tác, có hành
Là chưa đạt tới chỗ thiết yếu
Nếu hiểu được thế nào là bất sinh
Thì không thấy còn hữu cũng không còn nhu yếu tác và hành.

16.
Vì hữu nên mới phải có sinh
Và vì sinh cho nên hữu lại tiếp tục
Có tác, có hành, thì tử rồi lại sinh
Đó là cánh cửa sinh tử mở ra, để đưa đến sự phát khởi của các pháp.

17.
Cái gì cũng do thức ăntồn tại
Ngay cả cái buồn, cái vui cũng phải cần thức ăn mới có
Nếu cái chất liệu thiết yếu ấy không còn
Thì không còn dấu vết nào của hành mà mình có thể nhận diện.

18.
Nếu khổ đau đã hết và các hành đã diệt
Thì hạnh phúc sẽ có mặt một cách lặng lẽ, và sẽ có bình an
tỳ kheo đã tự biết mình là ai
Thì không còn phải tìm đi vào một cõi nào nữa.

19. Không đi vào cái hư không
Không có cái nơi đi vào để đi vào
Không đi vào tưởng hay vô tưởng
Không đi vào đời này hay đời sau.

20.
Cũng không có tri giác ý niệm về mặt trờimặt trăng đang có mặt
Không đi cũng không ở lại
Không có một cái ngã để đi và để về
Thì không có cái đi và cái về.

21.
Nơi không có cái mất đi cũng không có cái còn sinh ra
Nơi ấy là Niết bàn.
Như thế thì có đối tượng tri giác hay không có đối tượng tri giác
Bản chất của cái khổ và cái vui, mình đã hiểu thấu.

22.
Cái mình thấy mình không còn sợ hãi nữa
Không còn nghi ngờ gì nữa về ngôn từ hay không ngôn từ
Mũi tên bắn rơi được cái hữu rồi
Thì khi gặp kẻ ngu muội không cần diễn bày gì nữa cả.

23.
Đó là cái lạc thú đệ nhất
Con đường tịch diệt này không có gì cao hơn
Lúc bấy giờ mình có khả năng nhẫn chịu được, tâm mình cũng như đất
Và cái hành nhẫn cũng như một thành quách.

24.
Thanh tịnh như nước trong không còn chút cấu uế
Hết chất liệu luân hồi (sở sinh) thì không tiếp nhận cái kia nữa
Cái thắng và cái lợi không còn làm tiêu chuẩn để đi theo
Bởi vì dù có thắng có lợi nhưng cái khổ vẫn còn đó.

25.
Chỉ nên tự cầu cái thắng lợi về Pháp
Đã có pháp thắng thì không còn sở sinh
Hết sở sinh rồi thì không tạo tác thêm nữa
Muốn không còn luân hồi thì đừng nên có những hành động phóng đãng.

26.
Hạt giống một khi bị đốt cháy rồi thì không sinh lại
Tâm ý đã dừng lại rồi thì cũng như lửa đã tắt
Chốn dâm căn là một biển ô uế
Tại sao lại đi tìm lạc thú ở nơi ấy?

27.
Tuy phía trên kia có những cõi trời
Nhưng cũng không đâu bằng Niết bàn
Đã có nhất thiết trí thì cắt bỏ được tất cả
Ta không còn vướng mắc nữa vào thế gian.

28.
Buông bỏ hết, đã qua bờ diệt độ
Trong các con đường, đây là con đường đẹp nhất
Bụt đã diễn bày pháp chân đế
Kẻ có trí và có dũng có thể làm theo.

29.
Sống phạm hạnh, không một vết nhơ
Tự biết mình, vượt thời gian, đạt an ổn
Trong nếp sống tu tập, trước hết là xa lánh ái dục
Phải tự trang bị mình bằng giới luật của Bụt ngay tự bây giờ.

30.
Diệt phiền não, thoát ra khỏi thế giới hệ lụy
Dễ như con chim cất cánh bay lên không trung
Nếu hiểu được pháp cú này
Thì hãy đem hết lòng mà đi tới trên con đường đạo.

31.
Đó là con đường vượt qua bờ sinh tử
Đưa tới chỗ chấm dứt khổ đau hoạn nạn
Trong đạo pháp, không còn sự phân biệt thân sơ
Không còn hỏi ai có thế lực nhiều, ai không có thế lực.

32.
Quan trọng nhất là đừng bám vào tri giác
Khi cả hai cái cột và mở đều đã thanh tịnh
Thì bậc thượng trí không còn bị kẹt vào cái hình hài dễ tan vỡ này
Và thấy nó là một cái gì không chắc thật.

33.
Hình hài này đem lại khổ lụy nhiều mà an vui ít
Trong chín kẻ hở, không một kẻ hở nào thanh khiết
Người có trí tuệ biết bỏ nguy, giữ an
Chấm dứt ba hoa, trút được mọi khổ nạn.

34.
Thân này một khi đã hủy hoại sẽ trở thành tro bụi
Kẻ có tuệ biết buông bỏ không bám víu
Quán chiếu thấy được thân này là một công cụ mang theo nhiều hệ lụy
Thì sinh lão bệnh tử sẽ không còn là chuyện đau buồn.

35.
Buông bỏ được cấu uế, đi trên đường thanh tịnh
Thì có thể đạt tới cái an tĩnh lớn
Nương tuệ giác, bỏ tà kiến
Không tiếp nhận gì nữa thì đạt được tới lậu tận.

36.
Sống thanh tịnh, vượt thoát được thời gian,
Thì cả hai giới thiên nhân đều nghiêng mình kính nể.


(Tạng chữ Hán: kinh Pháp Cú – ĐCTT: 210 - phẩm 36: Nê hoàn - Thầy Làng Mai dịch từ Hán tạng sang quốc ngữ)

___________________________________

泥洹品 法句經 第三十六三十有六章
Nê hoàn phẩm, Pháp Cú Kinh, đệ tam thập lục tam thập hữu lục chương

泥洹品者。 敘道大歸。 恬惔寂滅。 度生死畏。
nê hoàn phẩm giả。tự đạo Đại quy。điềm 惔 tịch diệt。độ sanh tử úy。


01
忍 為 最 自 守
泥 洹 佛 稱 上
捨 家 不 犯 戒 
息 心無 所 害
nhẫn vi tối tự thủ
nê hoàn Phật xưng thượng
xả gia bất phạm giới 
tức tâm vô sở hại

02
無 病 最 利 
知 足 最 富 
厚 為 最 友 
泥 洹 最 快
vô bệnh tối lợi
tri túc tối phú
hậu vi tối hữu
nê hoàn tối khoái

03
飢 為 大 病 
行 為 最 苦
已 諦 知 此 
泥 洹 最 樂
cơ vi đại bệnh
hạnh vi tối khổ
dĩ đế tri thử 
nê hoàn tối lạc

04
少 往 善 道
趣 惡 道 多 
如 諦 知 此 
泥 洹 最 安
thiểu vãng thiện đạo
thú ác đạo đa
như đế tri thử
nê hoàn tối an

05
從因生善 
從 因 墮 惡 
由因泥洹
所 緣 亦 然
tùng nhân sanh thiện
tùng nhân đọa ác
do nhân nê hoàn 
sở duyên diệc nhiên

06
麋鹿依野 
鳥依虛空
法 歸 其 報 
真 人 歸 滅
mi lộc y dã
điểu y hư không
Pháp quy kỳ báo
chân nhân quy diệt

07
始無如不
始不如無 
是為無得 
亦無有思
thủy vô như bất 
thủy bất như vô
thị vi vô đắc
diệc vô hữu

08
心難見習可覩 
覺欲者乃具見
無所樂為苦際 
在愛欲為增痛
tâm nan kiến tập khả đổ
giác dục giả nãi cụ kiến 
vô sở lạc vi khổ tế
tại ái dục vi tăng thống

09
明不清淨能御 
無所近為苦際
見有見聞有聞 
念有念識有識
minh bất thanh tịnh năng ngự
vô sở cận vi khổ tế
kiến hữu kiến văn hữu văn 
niệm hữu niệm thức hữu thức

10
覩無著亦無識 
一切捨為得際
身 想 滅 痛 行 
識已盡為苦竟
đổ Vô Trước diệc vô thức
nhất thiết xả vi đắc tế
trừ thân tưởng diệt thống hành 
thức dĩ tận vi khổ cánh

11
猗則動虛則淨 
動非近非有樂
樂無近為得寂 
寂已寂已往來
y tức động hư tức tịnh
động phi cận phi hữu lạc 
lạc vô cận vi đắc tịch
tịch dĩ tịch dĩ vãng lai

12
來往絕無生死 
生死斷無此彼
此彼斷為兩滅 
滅無餘為苦除
lai vãng tuyệt vô sanh tử
sanh tử đoạn vô thử bỉ
thử bỉ đoạn vi lưỡng diệt
diệt vô dư vi khổ trừ

13
比丘有世生 
有有有作行
有無生無有 
無 作 無 所 行
Tỳ-kheo hữu thế sanh
hữu hữu hữu tác hạnh 
hữu vô sanh vô hữu 
vô tác vô sở hành


14
夫唯無念者 
為能得自致
無生無復有 
無作無行處
phu duy vô niệm giả
vi năng đắc tự trí
vô sanh vô phục hữu
vô tác vô hành xử

15
生有作行者 
是為不得要
若已解不生 
不 有 不 作 行
sanh hữu tác hành giả
thị vi bất đắc yếu
nhược dĩ giải bất sanh
bất hữu bất tác hành

16
則生有得要 
從生有已起
作 行 致 死 生 
為開為法果
tức sanh hữu đắc yếu
tùng sanh hữu dĩ khởi
tác hành trí tử sanh
vi khai vi pháp quả

17
從食因緣有 
從食致憂樂
而此要滅者 
無復念行迹
tùng thực nhân duyên hữu
tùng thực trí ưu lạc 
nhi thử yếu diệt giả 
vô phục niệm hành tích

18
諸苦法已盡 
行滅湛然安
比丘吾已知 
無復諸入地
chư khổ Pháp dĩ tận
hành diệt trạm nhiên an
Tỳ-kheo ngô dĩ tri
vô phục chư nhập địa

19
無有虛空入 
無 諸 入 用 入
無 想 不 想 入 
無今世後世
vô hữu hư không nhập
vô chư nhập dụng nhập 
vô tưởng bất tưởng nhập
vô kim thế hậu thế

20
亦無日月想 
無往無所懸
我已無往反 
不去而不來
diệc vô nhật nguyệt tưởng
vô vãng vô sở huyền
ngã dĩ vô vãng phản
bất khứ nhi bất-lai

21
不 沒 不 復 生 
是 際 為 泥 洹
如 是 像 無 像 
苦 樂 為 以 解
bất một bất phục sanh
thị tế vi nê hoàn 
như thị tượng vô tượng 
khổ lạc vi dĩ giải

22
所 見 不 復 恐 
無 言 言 無 疑
斷有之 射 箭 
遘 愚 無 所 猗
sở kiến bất phục khủng
vô ngôn ngôn vô nghi
đoạn hữu chi xạ tiến
cấu ngu vô sở y


23
是 為 第 一 快 
此 道 寂 無 上
受 辱 心 如 地 
行 忍 如 門 閾
thị vi đệ nhất khoái
thử đạo tịch vô thượng
thọ nhục tâm như địa 
hạnh nhẫn như môn quắc

24
淨 如 水 無 垢 
生 盡 無 彼 受
利 勝 不 足 恃 
雖 勝 猶 復 苦
tịnh như thủy vô cấu
sanh tận vô bỉ thọ 
lợi thắng bất túc thị
tuy thắng do phục khổ

25
當 自 求 去 勝 
已 勝 無 所 生
畢 故 不 造 新 
厭 胎 無 婬 行
đương tự cầu khứ thắng
dĩ thắng vô sở sanh
tất cố bất tạo tân
yếm thai vô dâm hành

26.
種 燋 不 復 生 
意 盡 如 火 滅
胞 胎 為 穢 海 
何 為 樂 婬 行
chủng tiêu bất phục sanh
ý tận như hỏa diệt
bào thai vi uế hải
hà vi lạc dâm hành

27
雖 上 有 善 處 
皆 莫 如 泥 洹
悉 知 一 切 斷 
不 復 著 世 間
tuy thượng hữu thiện xứ
giai mạc như nê hoàn
tất tri nhất thiết đoạn
bất phục trước thế gian

28
都 棄 如 滅 度 
眾 道 中 斯 勝
佛 以 現 諦 法 
智 勇 能 奉 持
đô khí như diệt độ
chúng đạo trung tư thắng
Phật dĩ hiện đế Pháp
trí dũng năng phụng trì

29
行 淨 無 瑕 穢 
自 知 度 世 安
道 務 先 遠 欲 
早 服 佛 教 戒
hạnh tịnh vô hà uế
tự tri độ thế an
đạo vụ tiên viễn dục
tảo phục Phật giáo giới

30
滅 惡 極 惡 際 
易 如 鳥 逝 空
若 已 解 法 句 
至 心 體 道 行
diệt ác cực ác tế
dịch như điểu thệ không
nhược dĩ giải Pháp
chí tâm thể đạo hành

31
是度生死岸 
苦盡而無患
道法無親疎 
正 不 問 羸 強
thị độ sanh tử ngạn
khổ tận nhi vô hoạn
đạo phápthân sơ
chánh bất vấn luy cường

32
要 在 無 識 想 
結 解 為 清 淨
上 智 饜 腐 身 
危 脆 非 實 真
yếu tại vô thức tưởng
kết giải vi thanh tịnh
thượng trí yếm hủ thân
nguy thúy phi thật chân

33
苦 多 而 樂 少 
九 孔 無 一 淨
慧 以 危 貿 安 
棄 猗 脫 眾 難
khổ đa nhi lạc thiểu
cửu khổng vô nhất tịnh
tuệ dĩ nguy mậu an
khí y thoát chúng nạn

34
形腐銷為沫 
慧見捨不貪
觀身為苦器 
生 老 病 無 痛
hình hủ tiêu vi mạt
tuệ kiến xả bất tham
quán thân vi khổ khí
sanh lão bệnh vô thống

35
棄 垢 行 清 淨 
可 以 獲 大 安
依 慧 以 却 邪 
不 受 漏 得 盡
khí cấu hành thanh tịnh
khả dĩ hoạch Đại An
y tuệ dĩ khước tà
bất thọ lậu đắc tận

36
行 淨 致 度 世 
天 人 莫 不 禮
hạnh tịnh trí độ thế
Thiên Nhân mạc bất lễ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15597)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13764)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13161)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13599)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12511)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12100)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12933)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13029)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13256)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21370)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143775)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15690)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81321)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19591)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20251)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19287)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15198)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13073)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13147)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49011)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14797)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18622)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16427)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19376)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28058)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22191)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23340)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64849)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33223)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40201)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27325)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74915)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36162)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49005)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31027)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33952)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58843)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46276)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43845)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43235)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45946)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48041)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34636)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33453)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43933)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52949)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40483)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31467)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28710)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31895)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28840)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33371)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29142)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60986)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39783)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29677)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37394)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26849)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42666)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant