Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Nhứt thiết Như Lai danh hiệu đà-ra-ni

17 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 40459)
Kinh Nhứt thiết Như Lai danh hiệu đà-ra-ni

Kinh Nhứt thiết Như Lai danh hiệu đà-ra-ni

Đại sư Pháp Hiền phụng chiếu dịch từ Phạn ra Hán văn
Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn

Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người đều câu hội đầy đủ, lại còn có tám vạn bốn ngàn Ðại Phạm Thiên tử cũng ở tại đạo tràng này. Tất cả đều vi nhiễu chiêm ngưỡng đức Thế tôn.

Bấy giờ trong hội có đại Bồ-tát tên Quán Tự Tại, từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn! Có Nhứt Thiết Như Lai Danh Hiệu đà-ra-ni, trong Trang Nghiêm kiếp, Hiền kiếp, Tinh Tú kiếp, chư Phật Như Lai đã nói, đang nói Nhứt Thiết Như Lai Danh Hiệu đà-ra-ni này. Con nay thừa oai lực của Phật, cũng vì lợi ích an lạc các chúng sanh, cho nên muốn tuyên nói. Cúi mong đức Thế tôn thương xót phú hộ.”

Bấy giờ đức Thế tôn khen ngợi Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay! Này Quán Tự Tại, ông hay vì lợi ích tất cả chúng sinh mà phát đại bi tâm, hãy tuyên nói như ý.”

Lúc ấy Quán Tự Tại Bồ-tát mong nhờ Phật đã cho phép rồi, lại bạch đức Phật rằng: “Thưa đức Thế tôn! Nếu người muốn tụng đà-ra-ni này, trước hãynên chí thành tụng danh hiệu của chư Phật Như Lai sau đây:

Nam mô Bảo Sư Tử Tự Tại Như Lai
Nam mô Bảo Vân Như Lai
Nam mô Bảo Trang Nghiêm Tạng Như Lai
Nam mô Sư Tử Ðại Vân Như Lai
Nam mô Vân Sư Tử Như Lai
Nam mô Tu Di Như Lai
Nam mô Sư Tử Hống Như Lai
Nam mô Sư Tử Lợi Như Lai
Nam mô Phạm Âm Như Lai
Nam mô Thiện Ái Như Lai
Nam mô Liên Hoa Thượng Như Lai
Nam mô Nhiên Ðăng Như Lai
Nam mô Liên Hoa Sanh Như Lai
Nam mô Tốn Na Ra Như Lai
Nam mô Trì Hoa Như Lai
Nam mô Trì Bảo Như Lai
Nam mô Pháp Sanh Như Lai
Nam mô Nhựt Quang Như Lai
Nam mô Nhựt Chiếu Như Lai
Nam mô Nguyệt Quang Như Lai
Nam mô Vô Lượng Tạng Như Lai
Nam mô Vô Lượng Trang Nghiêm Tạng Như Lai
Nam mô Vô Lượng Quang Như Lai
Nam mô Liên Hoa Tạng Như Lai
Nam mô Thiên Diệu Âm Như Lai
Nam mô Câu Chỉ La Ðẳng Như Lai

Nếu người được nghe tất cả các danh hiệu của chư Phật Như Lai như thế, vì kẻ khác tuyên nói, người đó trong sáu mươi ngàn kiếp không nghe tên ác thú huống nữa là đoạ nơi A-tỳ địa ngục”.

Bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát nói danh hiệu của chư Phật Như Lai rồi, liền nói đà-ra-ni rằng:

Ðát Nĩnh Dã Tha, Tạt Ðổ Ra Thi Ðế Du Nhạ Na Thiết Ða Tát Hạ Tát Ra Ni, Nhạ Trá Bà Ra Mạt Cô Tra Lãng Ngật Lị Ða, Ðà Ra Ni Sa Hạ, Tạt Lị Phạ Ðát Tha nga đa Mẫu Lị Ðể Ða, Ðà Ra Ni Sa Hạ, A Phạ Lộ Kiết Ðế Thuyết Ra Giả Sa Hạ, Tát Lị Phạ Ðát Tha Nga Ðô Ô Sắc Nị Sa, Ðà Ra Ni Sa Hạ, Tát Lị Phạ Ðát Tha Nga Ða Bà Thỉ Ða, Ðạt Lị Ma Tắc Kiên Ðà, đà-ra-ni Sa Hạ, Tát Lị Phạ Ðát Tha Nga Ða Bà Thỉ Ða Táp Bát Ða Ðà Ra Ni Sa Hạ, Bát Nạp Ma A Bà Nễ Ca Giã Sa Hạ, A Sắt Tra Ma Hạ Bạt Giã Ðà Ra Ni Sa Hạ, Duyệt Ða Phạ Lang Noa Giả Sa Hạ, Tát Lị Phạ Ðát Tha Nga Ða Na Ma Ðà Ra Ni Sa Hạ, A Thi Ðế Bát Nạp Ma Thiết Nễ Ca Giả Ðát Tha Nga Ða Ðà Ra Ni Sa Hạ, Bát Nạp Ma Hạ Tất Ða Giả Sa Hạ, Tát Lị Phạ Mãn Ðát Ra Ðà Ra Ni Sa Hạ.

Lúc bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ-tát nói đà-ra-ni rồi, lại bạch Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có kẻ trai lành, gái tín thọ trì, đọc tụng, tư duy, ghi nhớ Nhứt Thiết Như Lai Danh Hiệu đà-ra-ni này, vì kẻ khác truyền nói, người ấy đã có nghiệp ngũ vô gián, thảy được tiêu trừ. Sau khi mạng chung, người ấy sanh lên làm vua chư Thiên, sống lâu tám mươi bốn trăm ngàn cu-chi kiếp số, về sau được làm địa vị Chuyển luân Thánh vương sống 60 trung kiếp. Qua kiếp đó rồi, người ấy sẽ được thành Phật gọi là Liên Hoa Tạng Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng Chánh giác”.

Lúc đức Thế tôn nói Kinh này rồi, tám vạn Ðại Bồ-tát chúng và tám vạn bốn ngàn Ðại Phạm Thiên tử nghe đức Phật nói, đều đại hoan hỷ tín thọ phụng hành.

 

Kinh Nhứt thiết Như Lai Danh hiệu đà-ra-ni (hết)
Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn, bản đánh máy năm 1975.

 

Vi tính: Nguyễn minh Hoàng và Nguyễn thị Diệu Minh.

Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
07 Tháng Mười Hai 201108:00
Khách
A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12833)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12758)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11802)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11783)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12401)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12452)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19897)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12047)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12070)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16947)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12732)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15150)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16197)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12948)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12311)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11973)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11975)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13218)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16566)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13288)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12570)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11906)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19924)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11229)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11322)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10458)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11154)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11017)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10075)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11798)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12008)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11151)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12116)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12603)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10824)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18044)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11759)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9996)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16629)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11915)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10976)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11913)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28867)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12429)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53162)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12245)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12384)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11460)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17258)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15037)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14660)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13920)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11777)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15106)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant