Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bệ Ma Túc

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13250)
Kinh Bệ Ma Túc


PHẬT NÓI KINH BỆ MA TÚC


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0090 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Tống, Thiên Trúc, Tam tạng Cầu Na Bạt Ðà La.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 


 

Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, thành Xá vệ. Bấy giờ Bệ Ma Túc người theo học thuyết khác, sau giờ ngọ thong thả đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong bạch đức Thế Tôn rằng:

-Thưa Cù Ðàm, hình sắc thật vi diệu vô thượng.

-Này Ca Chiên Diên, thế nào là sắc vi diệu?

-Này Cù Ðàm, đó là sắc vi diệu, cực diệu, không có sự vi diệu nào tối thắng hơn. Nó là tối diệu, rất đẹp, sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thượng, rất đẹp.

-Này Ca Chiên Diên, giống như có người nói như vầy: “Người ấy thật đẹp, tôi muốn dâm dục cùng nàng”. Hoặc có người hỏi: “Ngươi bảo người ấy tuyệt đẹp đối với mọi người, vậy người ấy tên gì, họ gì, hình dạng ra sao, cao hay thấp, hay trung bình, đoan chánh hay không đoan chánh, trắng hay đen, kẻ ấy là con gái của Sát đế lợi, Bà la môn, cư sĩ hay con gái của thợ thuyền? Kẻ ấy từ phương Ðông, phương Nam, phương Tây hay phương Bắc đến? Hỏi như vậy rồi nhưng không thể trả lời được. Ngươi không biết, không thấy mà bảo rằng người ấy đẹp nhất trong mọi người ấy, đến phương Bắc, rồi nói là “muốn dâm dục”.

-Này Ca Chiên Diên, ngươi đã nói “sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thượng, sắc ấy không có gì hơn được”, nhưng lại hỏi sắc ấy thì lại không thể biết.

-Này Cù Ðàm, giống như vàng Diêm Phù Ðàn được người thợ thiện xảo ra sức mài dũa, làm cho sạch sẽ rồi gắn ngọc trắng vào bên trong, hình sắc cực đẹp, màu sắc chiếu sáng. Cho nên, này Cù Ðàm, tôi mới nói: sắc ấy là tối diệu, sắc ấy là tối thắng; sắc ấy là tối thắng, sắc ấy là vô thương, sắc ấy là tối thượng.

Cho nên này Ca Chiên Diên, ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý nghĩtrả lời ta. Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Vàng Diêm Phù Ðàn này được người thợ thiện xảo ra sức mài dũa, làm cho nó được sạch rồi gắn ngọc trắng bên trong, hình sắc chiếu sáng. Vậy ánh sáng của con đom đóm lúc trời tối cùng sắc của vàng Diêm Phù Ðàn chiếu sáng, thì ánh sáng nào tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn?

-Này Cù Ðàm, ánh sáng của con đom đóm so với ánh sáng của vàng Diêm Phù Ðàn thì nó quang minh, tối thượng, tối hảo, tối diệu hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của con đom đóm lúc đêm tối cùng với ánh sáng của đèn dầu trong đêm tối, vậy ánh sáng nào tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của đèn dầu so với ánh sáng của con đom đóm thì ánh sáng ấy là tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của đèn dầu chiếu sáng trong đêm tối, so với ngọn đuốc lớn chiếu sáng trong đêm tối thì ánh sáng nào tối thắng, diệu hảo, tối thượng?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của ngọn đuốc lớn so với ánh sáng của đèn dầu thì nó tối thắng, tối thượng, diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của ngọn đuốc lớn chiếu sáng trong đêm tối so với ánh sáng của ngôi sao chói sáng trên bầu trời trong sáng không có mây che vào lúc quá nửa đêm, thì ánh sáng nào tối thắng hết sức diệu hảo?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của ngôi sao so với ánh sáng của bó đuốc thì nó quang minh, tối thắng, hết sức diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của ngôi sao vào lúc quá nửa đêm trên bầu trời lúc không có mây che so với ánh sáng của mặt trăng trên bầu trời không có mây che vào lúc quá nửa đêm. Vậy ánh sáng nào tối thắng, hết sức diệu hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của mặt trăng so với ánh sáng của ngôi sao thì ánh sáng của mặt trăngtối thắng, hết sức diệu hảo.

-Này Ca Chiên Diên, ý ngươi thế nào? Ánh sáng của mặt trăng lúc nửa đêm khi trời trong vắt, không có mây che, so với ánh sáng của mặt trời lúc giữa trưa vào mùa hè thì ánh sáng nào tối thắng, vô cùng diệu hảo hơn?

-Thưa Cù Ðàm, ánh sáng của mặt trời so với ánh sáng của mặt trăng thì nó tối thắng, vô cùng diệu hảo hơn.

-Này Ca Chiên Diên, có rất nhiều cõi trờioai thần như vậy, có ánh sáng vô cùng mà không có gì sánh kịp. Ta vốn ngồi ở trong ấy, vốn ở trong đó mà nói. Ta không nói: “Ánh sáng tối thắng, ánh sáng tối thượng, ánh sáng tối diệu”. Này Ca Chiên Diên, cái ánh sáng của con đom đóm là rất nhỏ, không sánh bằng. Ngươi lại nói: “Tối thượng, tối thắng, tối diệu” sao khi hỏi về ánh sáng thì ngươi không thể biết?

Khi ấy Bệ Ma Túc bị đức Thế Tôn mắng thẳng vào mặt, im lặng mà đứng, chẳng có lời biện bạch, thân, mặt xấu hổ, chẳng nói gì, im lặng mà đứng.

Bấy giờ đức Thế Tôn quở trách thẳng vào mặt của Bệ Ma Túc rồi, Ngài lại bảo Bệ Ma Túc:

-Lại nữa, này Ca Chiên Diên, có năm thứ sắc dục ái, niệm ái, gần với dâm, nhiễm trước. Ðó là: mắt thấy sắc, tai biết tiếng, mũi biết hương, lưỡi biết vị, thân biết xúc êm dịu.

Này Ca Chiên Diên, hoặc có yêu sắc, hoặc không yêu sắc, đó là hoặc có người đối với sắc rất hoan hỷ, ý niệm hoan hỷ cũng đầy đủ; đối với sắc này hay đối với sắc kia, không muốn, không nghĩ, không mong được, không cầu, đó là sắc tối diệu, tối thượng.

Này Ca Chiên Diên, hoặc có người yêu thinh, hương, vị, mịn láng; hoặc có người không yêu mịn láng; hoặc có người đối với vật mịn láng thì rất hoan hỷ, ý sở niệm hoan hỷ cũng đầy đủ; đối với vật mịn láng kia hoặc vật mịn láng khác không muốn, không nghĩ, không muốn được, không cầu mong, vật mịn láng đó là tối thượng, tối diệu.

Bấy giờ Bệ Ma Túc chắp tay hướng về Thế Tôn, thưa đức Thế Tôn:

-Thật là kỳ diệu, thưa Cù Ðàm, sa môn Cù Ðàm đã dùng vô lượng phương tiện nói cho con nghe về dâm lạc, cầu dâm lạc. Giống như, thưa Cù Ðàm, cây cỏ nhờ lửa mà cháy, lửa nhơn cây cỏ mà bốc cháy. Cũng như vậy, sa môn Cù Ðàm của con dùng vô lượng phương tiện nói về dâm, nói về sự đình chỉ dâm lạc, cầu dâm lạc.

-Này Ca Chiên Diên, ngươi làm bất thiện cho nên đối với việc ấy mới mãi mãi có kiến khác, có nhẫn khác, có dục khác, có cầu khác. Ðiều ta đã nói bình đẳng ban bố, bình đẳng mà biết nghĩa ấy.

Này Ca Chiên Diên, các Tỳ kheo đệ tử của ta, sáng sớm thức dậy và chiều đến thường không nằm ngủ, thường hay giảng luận để thành tôn đạo, đầy đủ phân biệt, “sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, đã biết như chơn về danh, sắc”. Ðiều ta đã nói bình đẳng ban bố, bình đẳng mà biết nghĩa ấy.

Bấy giờ Bệ Ma Túc hết sức sân hận đối với Thế Tôn, trong lòng bực tức, không hoan hỷ, nói với Thế Tôn, bài xích Thế Tôn, mắng chửi Thế Tôn.

-Như vậy, thưa sa môn Cù Ðàm, đó chẳng phải là mắng chửi.

Nói như vậy xong, thưa với Thế Tôn:

-Này Cù Ðàm, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ, không biết đời đương lai, vô lượng đời sốngthế gian, nhưng vẫn cứ nói: “Ðời sống của Thánh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, đã biết như chơn về danh, sắc”.

Bấy giờ đức Thế Tôn nghĩ như vầy: rằng Bệ Ma Túc hết sức sân hận đối với ta, trong lòng vô cùng bực tức, không hoan hỷ, bài báng ta, mạ lị ta: “Này sa môn Cù Ðàm, tôi đã mắng chửi”, rồi thưa với ta: “Này Cù Ðàm, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ ... cho đến biết như chơn”. Ðức Thế Tôn biết như vậy rồi bảo Bệ Ma Túc rằng:

-Này Ca Chiên Diên, hoặc có sa môn, bà la môn không biết đời quá khứ ... cho đến biết như chơn. Khi ấy nên nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại, hãy để đời đương lai lại, không nên nghĩ một đời”.

Lại nữa, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại, hãy để đời đương lai lại, không nên nghĩ một đời”. Các Tỳ kheo đệ tử của ta không dua nịnh, cũng không như huyễn, hành động ngay thẳng. Ta dạy dỗ họ, ta thuyết pháp cho họ, như đã trình bày đều có thể học tập, gần với pháp, biết đó là thiện. Giống như, này Ca Chiên Diên, có đồng nam trẻ tuổi, bị cha mẹ cột tay chân lại. Khi đó nếu có trí tuệ, cha mẹ nó sẽ mở trói tay chân cho. Nó chỉ nhớ đến việc mở trói, không nghĩ đến việc cột. Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có điều thiện”. Này Ca Chiên Diên, giống như nhân dầu và tim bấc mà đèn được cháy. Hoặc có người không đổ dầu, cũng không thay tim bấc, tim dầu có trước đã hết, sau chẳng thêm vào, không lâu đèn ấy sẽ tắt liền. Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta nói như vầy: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có thiện”.

Này Ca Chiên Diên, giống như có mười cây gỗ dụm lại, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi cây gỗ dụm lại, dùng lửa đốt cháy nên biết có một đám lửa lớn. Hoặc có người không dùng củi, không dùng cỏ, không dùng phân trâu, không dùng trấu, không dùng rơm bỏ vào đống lửa, thì không bao lâu nó sẽ tắt ngúm, không còn dùng được, tiêu diệt nhanh chóng.

Như vậy, này Ca Chiên Diên, ta đã nói: “Hãy để đời quá khứ lại ... cho đến biết có thiện”.

Ðức Phật nói như vậy, bấy giờ Bệ Ma Túc xa lìa trần cấu, sanh các pháp nhãn. Bấy giờ Bệ Ma Túc thấy pháp, đắc pháp, liễu ngộ pháp, thanh tịnh đối với pháp, xa lìa tà, hết nghi, lại không còn tôn kính trời, không còn tin ở người khác nữa, lìa các do dự, được an lập quả chứng, được pháp vô úy đối với cảnh giới của đức Thế Tôn, từ tòa đứng dậy, đầu mặt lạy dưới chân đức Thế Tôn, thưa đức Thế Tôn:

-Con có thể được học đạo với đức Thế Tôn, thọ cụ túc, làm Tỳ kheo, theo Thế Tôn để tu hành phạm hạnh?

-Này Tỳ kheo, hãy hành phạm hạnh.

Bệ Ma Túc học đạo với Thế Tôn, thọ cụ túc, làm Tỳ kheo.

Tôn giả Bệ Ma Túc học đạo (với đức Thế Tôn), thọ cụ túc, trì pháp, . . . cho đến thành A la hán.

Ðức Phật nói như vậy, Bệ Ma Túc nghe lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ vui mừng.

PHẬT NÓI KINH BỆ MA TÚC 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43878)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43002)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48987)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39802)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53761)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36801)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40778)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49707)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47290)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27671)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25800)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29856)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27119)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24693)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21264)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23188)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23852)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22767)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29547)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20609)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34142)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24616)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29962)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20181)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20372)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15108)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23837)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34034)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23964)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29144)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60095)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27571)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68673)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24481)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26313)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20760)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20018)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27515)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46335)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25523)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29207)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188709)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27375)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31090)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33098)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23964)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25551)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26636)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36584)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27284)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30327)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37252)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36908)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27566)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28302)
Công Phu Khuya
(Xem: 24131)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant