Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Nói Kinh A Hàm Chính Hạnh

18 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14495)
Phật Nói Kinh A Hàm Chính Hạnh

PHẬT NÓI KINH A-HÀM CHÍNH-HẠNH (1)


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0151 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hậu-Hán, An-Thế-Cao dịch chữ Phạn ra chữ Hán.

Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán, ra chữ Việt.

---o0o---


Chính tôi được nghe: một thời kia đức Phật ở trong vườn cây của ông Kỳ-Đà và ông Cấp-Cô-Độc, thuộc nước Xá-Vệ.

Bấy giờ, đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Nay ta sẽ vì các ông nói về kinh. Trong kinh, lời nói cao-thượng cũng quý, lời nói trung-bình cũng quý, lời nói rất thấp cũng quý. Mà, nói về đạo độ thế, cần lấy “chính tâm làm gốc”. Các ông hãy nghe ta nói và để cho đời sau được truyền-bá, thực-hành theo lời kinh ấy.

Khi ấy, các vị Tỳ-Khưu đều chắp tay thụ-giáo.

Đức Phật dạy: Trong thân người ta có năm thứ giặc, thường lôi kéo người ta vào đường ác. Năm thứ giặc ấy là những gì?

Một là, sắc (hình-sắc).

Hai là, đau-đớn (thụ: chịu đựng).

Ba là, tư-tưởng.

Bốn là, sinh-tử (hành-động).

Năm là, thức (nhận-thức). (2)

Đó là năm thứ mà người ta thường niệm đến.

Đức Phật dạy: Người ta thường bị mắt lừa-dối, tai lừa-dối, mũi lừa-dối, miệng lừa-dối và bị thân lừa-dối. Song, mắt chỉ trông được, không thể nghe được; tai chỉ nghe được, không thể trông thấy được, mũi chỉ biết ngửi hương-vị không thể nghe được; miệng lưỡi chỉ biết nếm mùi, không thể biết được hương-vị; thân-thể chỉ biết lạnh, ấm, không thể biết được mùi. Năm căn ấy đều thuộc về “tâm” và lấy “tâm” làm gốc. (3)

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu! Các ông muốn cầu đạo, các ông nên đoan-chính tâm các ông. Nếu từ nơi si-mê phát-khởi, hẳn sẽ sa rơi vào mười hai nhân-duyên và liền có ra sự sinh-tử luân-hồi. Những gì là mười hai nhân-duyên? - Một là, căn-bản là si-mê (vô-minh). Hai là, hành (hành-động). Ba là, thức (nhận-thức). Bốn là, tự (danh-tự hay danh-sắc) (4). Năm là, lục-nhập (5). Sáu là, tài (tài-bồi, có chỗ gọi là xúc) (6). Bảy là thống (đau-khổ, có chỗ gọi là thủ). Tám là, ái (yêu). Chín là, thụ (cảm-thụ). Mười là, hữu (7). Mười một là, sinh. Mười hai là tử (8). Người làm việc thiện, sẽ được làm người. Người làm việc ác, chết phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh.

Đức Phật ngồi suy-nghĩ và nói: “Người ta do si-mê, nên có ra sự sinh-tử”. Si là gì? - Trước đây do từ trong si-mê, nên nay sinh làm người. Làm người, tâm si-mê không cởi-mở, mắt không khai tỏ, không biết chết đi sẽ xu-hướng về nơi nào; thấy Phật không hỏi, thấy kinh không đọc, thấy bậc Sa-Môn (9) không biết thừa-sự, không tin đạo-đức; thấy cha mẹ không kính; không nghĩ đến nỗi khổ của thế gian, không biết sự tra-khảo, trừng-trị kịch-liệt trong địa-ngục, thế gọi là si-mê, nên có ra sự sinh-tử. Và, sự sinh-tử không ngừng, nhanh như thời-gian hô-hấp, nguy-hiểm ngay đến thân-mệnh người ta. Trong thân người ta có ba sự, sau khi thân chết đi thời Thức đi, Tâm đi và Ý đi. Trong ba sự ấy, thường theo-đuổi nhau. Người làm việc ác, chết phải sa vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc sinh và quỷ-thần. Người làm việc thiện cũng có ba sự ấy thường theo-đuổi nhau, hoặc sinh lên cõi Trời, hoặc sinh trong cõi người. Những người bị sa-đọa vào trong năm đường (10), đều vì tâm không được đoan-chính.”

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Các ông đều phải nên đoan-chính tâm các ông, đoan-chính mắt các ông, đoan-chính tai các ông, đoan-chính mũi các ông, đoan-chính miệng các ông, đoan-chính thân các ông và đoan-chính ý các ông. Thân-thể sẽ tan-hòa với đất, nhưng khối thần-thức sẽ không phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, quỷ-thần.

Thấy nhà người ta có người con ác, bị quan nã-bắt, cũng đều vì tâm không được đoan-chính. Trong thân người ta có đến trăm tên gọi, như xe cũng có trăm tên gọi. Người hay tham, hay giận, không suy-nghĩ gì đến những sự trong thân, chết vào trong địa-ngục, hối không kịp được.

Đức Phật dạy: Thân ta xa-lìa đất nước, bỏ ngôi Chuyển-Luân-Vương lo cắt đứt sinh-tử, muốn độ những người thế-gian, khiến họ được đạo-quả Niết-Bàn. Người tinh-tiến thứ nhất sẽ được đạo-quả A-La-Hán; người tinh-tiến thứ hai tự đến được đạo-quả A-Na-Hàm. Người tinh-tiến thứ ba được đạo-quả Tư-Đà-Hàm. Người tinh-tiến thứ tư được đạo-quả Tu-Đà-Hoàn (11). Tuy thế, người không tinh-tiến lắm được, cũng cần nên giữ năm điều răn: Một là, không sát sinh. Hai là, không trộm-cắp. Ba là, không hai lưỡi. Bốn là, không dâm-dật. Năm là, không uống rượu (12).

Đức Phật dạy: Người ta dù khi ngồi, khi dậy, thường nên suy-nghĩ bốn việc này. Bốn việc ấy là những gì?

- Một là, tự quán thân mình và quán thân người.

- Hai là, tự quán sự đau-đớn nơi mình và quán sự đau-đớn nơi người.

- Ba là, tự quán tâm-ý nơi mình và quán tâm-ý nơi người.

- Bốn là, quán pháp nơi mình và quán pháp nơi người (13).

Người mà trong tâm khi sắp loạn-động, nên thu tâm lại, tự đoan-chính nhìn thẳng vào thân-thể, quán-tưởng rằng: “Thân này, no cũng cực, đói cũng cực, ở cũng cực, ngồi cũng cực, đi cũng cực, rét cũng cực, nóng cũng cực, nằm cũng cực. Khi sắp muốn nằm, nên tự sợ hãi ngồi dậy! Người ngồi không được đoan-chính, nên đứng dậy. Người đứng không được đoan-chính, nên kinh-hành. Người mà thảng hoặc tâm không được đoan-chính, nên tự chính. Ví như Quốc-Vương đem binh ra trận chiến-đấu, phải dàn những quân mạnh-mẽ ở đằng trước; tuy đã chống giặc ở khu trước, lại phải thích-hợp, có thể gìn-giữ được những người ở sau. Vị Sa-Môn đã bỏ nhà cửa, bỏ vợ con, cạo râu tóc làm Sa-Môn, tuy chịu khổ một đời, sau được giải-thoát mãi mãi. Người khi đắc đạo rồi, trong tâm mình vui vẻ, coi vợ như chị, em, coi con như bạn tri-thức, không còn có tâm tham-ái và thường rủ lòng lành thương; coi chư Thiên, nhân-dân, địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, cùng những loài sâu bay, bọ cựa trong mười phương, đều được giàu sang, an-lành, thoát khỏi sinh-tử, được đạo-quả Niết-Bàn. Thấy những loài sâu dưới đất, nên đem lòng từ thương xót nó. Biết lẽ sống, không vướng lại sự si-mê và thường có ý-niệm này: thường nghĩ ân-đức Thầy, phụng-sự Phật, như người nghĩ đến công ơn cha mẹ, như người tù bị tội tử-hình giam trong ngục, có bậc Hiền-giả đến xin cho khỏi bị tù; người bị tù có trí hiểu-biết, thường nghĩ đến ân đức bậc Hiền-giả. Vị Tỳ-Khưu được đạo-quả rồi, thường cũng phải nghĩ đến Phật như thế và nghĩ đến kinh-pháp cũng như người nghĩ đến việc ăn cơm vậy.

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu nên thừa sự nhau, như em thờ anh. Trong ấy, nếu có người si-mê, nên học-hỏi người trí-tuệ; đắp-đổi dạy lẫn nhau. Học hỏi người trí-tuệ như trong nơi tối có ánh đèn. Không được cãi-cọ, kiện-cáo nhau. Thấy vàng bạc nên coi như đất, đá. Không được làm chứng càn cho người ta, ghép người ta vào tội-pháp. Không được truyền lời nói xấu của người ta và chuyển lời nói đấu-tranh nhau. Không được làm thương-tổn trong ý nói của người ta. Không nghe thấy đừng nói là nghe thấy, không trông thấy đừng nói là trông thấy. Đi đường thường nên cúi đầu trông xuống đất. Sâu-bọ không nên dẫm chết. Không được tham-đắm phụ-nữ người ta và không được dùng hình-bóng phụ-nữ người ta. Ngồi tự suy-nghĩ: “Bỏ tâm tham-ái, mới được gọi là đạo”.

Đức Phật dạy: Người muốn cầu đạo, nên cầu ở chốn không-nhàn vẳng-lặng, tự hô-hấp hơi thở nơi mình, biết cách thở dài, ngắn; thở ra không hít vào, hình-thể đều mệt, ngậm hơi không thở, hình-thể cũng mệt (14). Phân-biệt tự suy nghĩ: “Hình-thể này ai là người tạo-tác ra? Tâm nên xét ngoài, cũng nên xét trong. Tự suy nghĩ, vui-vẻ, cùng người ta có tâm khác hơn, thời trong khi ấy thấy không cần dùng những thứ trân-bảo của thiên-hạ nữa. Người, tâm hơi muốn theo chánh-đạo, ý lại muốn chút xao-động, nên nén dẹp, ngăn ngừa giữ lại ngay, thời ý liền hoàn lại. Ví như người có tấm gương, gương không sáng không thể thấy hình được, lau-chùi bụi nhơ trên gương, tự thấy hình ngay. Người ta bỏ được tham-dâm, giận-dữ, ngu-si cũng ví như tấm gương đã lau-chùi rồi. Suy nghĩ kỹ: “Thiên-hạ này đều không có cái chi là vững-bền và cũng không có cái chi là thường mãi.”

Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu giữ-gìn tâm mình, nên như tảng đá vuông bốn mặt. Tảng đá ở giữa sân, mưa rơi cũng không hoại được, ánh mặt trời thiêu đốt cũng không tan được, gió thổi cũng không chuyển được. Gìn giữ tâm thường như tảng đá ấy.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Lòng người trong thiên-hạ cũng như nước chảy; trong giòng nước chảy ấy, có cỏ cây gì, đều tự trôi đi, không đoái nhìn lại nhau, thứ trôi trước không đoái nhìn lại thứ sau và thứ sau cũng không nhìn về thứ trước. Cỏ cây trôi đi, đều tự như thế. Lòng người cũng như thế, một niệm lại, một niệm đi, như cỏ cây trước, sau không nhìn lại nhau. Trong khoảng thiên thượng, thiên hạ này, không có cái gì ở chỗ nào lại vui trở lại. Gửi thân trong trời đất, bỏ thân này không sinh lại được. Đạo thành nên biết ơn thầy, thấy thầy liền thừa-sự, không thấy thầy nên suy-nghĩ lời răn dạy của thầy, như người nhớ nghĩ đến cha mẹ. Ý định có sự nhất tâm, liền có lòng thương-sót những loài sâu bay, bọ cựa cùng nhân-dân thiên-hạ. Và, ta ngồi ta tự vui cười là ta đã thoát thân trong thiên-hạ cùng năm đạo: một là Thiên-đạo, hai là Nhân-đạo, ba là Ngã-quỷ-đạo, bốn là Súc-sinh-đạo, năm là Địa-ngục-đạo. Người được đạo-quả A-La-Hán muốn phi-hành, biến-hóa cũng được; trong thân biến ra nước, lửa cũng được, ra chỗ kín mịn không kẽ hở, vào chỗ dầy-đặc không lỗ hổng cũng được và xa-lìa nỗi khổ thế-gian, chứng-đạo Niết-Bàn cũng được.”

Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: “Đạo không thể không làm, kinh không thể không đọc.”

Đức Phật nói kinh này rồi, năm trăm vị Sa-Môn đều được đạo-quả A-La-Hán. Các vị Sa-Môn ấy đều đứng dậy, tới trước đức Phật, đầu mặt cúi sát đất, làm lễ đức Phật mà lui.

 


(1) Kinh này là cuốn kinh số 151 trong Đại-Tạng-kinh. A-Hàm (Agama) gọi tóm-tắt kinh sách Tiểu-thừa. A-Hàm dịch là “Pháp-quy” là muôn pháp quay về nơi có nghĩa là vô-lậu; lại dịch là “vô-tỉ-pháp” có nghĩa là diệu-pháp không có gì sánh kịp, và dịch là “thú vô” có nghĩa là tôn-chỉ nói ra đạt tới chỗ rốt-ráo không còn có chỗ quy-thú nữa.

(2) Đây là nói về 5 uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành và thức.

(3) Đây nói là sự phân-biệt giả-dối của năm căn và đều quy về tâm làm gốc.

(4) Danh-sắc: là nói báo thân trong thai tạng do tâm-thức (danh) và tứ đại (sắc) hòa-hợp, nương tựa nhau sinh trưởng.

(5) Lục-nhập: 6 căn xúc nhập với 6 trần.

(6) Vun trồng, tiếp xúc.

(7) Có sự tạo-tác kết thành nghiệp hữu-lậu.

(8) 12 nhân-duyên nơi đây so-sánh với nơi khác, phần danh-từ và thứ thự hơi có chút sai-biệt.

(9) Sa-Môn (Srmana): Xưa dịch là “Tức tâm, Tĩnh-chí, Bần-đạo v.v…” Nay dịch là “Công-lao, Cần-tức”, đều có nghĩa là vị tu-hành siêng-năng tu-tập, ngăn-dứt phiền-não nơi tâm, làm yên lặng, trong sạch thần-chí, có công cần-cù khó nhọc tiến tu về đạo giải-thoát (đạo Phật).

(10) 5 đường: Thiên, A-tu-la, Địa-ngục, Ngã-quỷ, Súc-sinh.

(11) Xem chú-thích nơi kinh Tội-Phúc Báo Ứng.

(12) Năm điều răn này so với chỗ khác có sự sai thứ-tự.

(13) Đây là nói về 4 chỗ quán-niệm (tứ niệm xứ): 1/ Quán thân không trong-sạch. 2/ Quán sự lĩnh-thụ là khổ. 3/ Quán tâmvô thường. 4/ Quán phápvô ngã.

(14) Đây là nói về Sổ-tức-quán (cách đếm hơi thở).

 

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13712)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13114)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13536)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12432)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12043)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12864)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12940)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13161)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21295)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143526)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15634)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81212)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19539)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20140)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19198)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15085)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 12971)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13103)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48903)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14729)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18566)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16367)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19347)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27974)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22144)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23274)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64730)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33167)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40125)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27291)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74832)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36082)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48942)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 30988)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33884)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58773)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46228)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43775)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43173)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45863)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 47982)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34595)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33418)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52872)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40395)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31420)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28659)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31837)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28764)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33307)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29079)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60949)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39688)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29633)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37306)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26809)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42596)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 26354)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant