Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikaya Tập 1

22 Tháng Ba 201506:39(Xem: 13259)
Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikaya Tập 1
LỜI PHẬT DẠY
TRONG KINH TẠNG NIKAYA TẬP 1

Quảng Tánh

 Nhà Xuất Bản Tôn Giáo


 

Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàyakết tập những bài viết trong mục Lời Phật dạy được đăng tải hàng tuần trên báo Giác Ngộ. Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức và thể nghiệm nhất cho đọc giả.

Kinh tạng Nikàya là cả kho tàng kinh điển Phật giáo Nguyên thủy (Pali tạng) rất đồ sộ, hiện đã chuyển ngữ hoàn toàn sang tiếng Việt, bao gồm Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima NiKàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ), và Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ). So với kinh điển Hán tạng thì năm bộ Nikàya chưa phải là nhiều, song với nội dung vô cùng phong phú và được xem là nguyên thủy nhất, Kinh tạng Nikàya là nền tảng căn bản của giáo điển Phật giáo.

Đọc Kinh tạng Nikàya, chúng ta như được sống trong thời đại Thế TônThánh chúng với bối cảnh xã hội Ấn Độ đương thời cách nay gần 26 thế kỷ. Thế Tôn thật minh triết mà bình dị, đi đến đâu và gặp việc gì thì tùy duyên giáo hóa nên những lời dạy của Ngài vô cùng gần gũi, thiến thân với đời sống con người thời ấy và vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại ngày nay.

Những bài viết trong Lời Phật dạy gồm hai phần, kinh văn và lời bàn. Phần kinh văn hầu hết được trích dẫn nguyên bản hay một trích đoạn của kinh hoặc nguyên đoạn kinh nhưng có tĩnh lược những phần lặp lại cùng với xuất xứ cụ thể, chi tiết của đoạn kinh văn đó. Chúng tôi xem đây là phần quan trọng, chính yếu nhất vì đã góp phần giới thiệu đến bạn đọc nguyên văn lời vàng phát xuất từ kim khẩu Thế Tôn. Phần lời bàn, thực ra chỉ là sự giải thích sơ lược một số từ ngữ hay ý nghĩa kinh văn hoặc là đề xuất một hướng nhận thức cùng sự liên hệ, đối chiếu với thực tế theo thiển ý của người biên soạn, là phần thứ yếu để tham khảo thêm.

Vì tất cả những Lời Phật dạy đều được rút ra từ Kinh tạng Nikàya nên khi tập hợp thành sách có tên Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya. Nội dung tuyển tập Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya (tập I, II và III) được sắp xếp theo từng chủ đề sẽ tiện lợi cho việc tra cứu những lời Phật dạy về một đề tài nào đó vốn rải rác ở nhiều nơi trong Kinh tạng. Tuy nhiên, chủ đề ở đây cũng chỉ mang tính quy ước tạm thời vì có những Lời Phật dạy tuy cô đọng nhưng hàm súc, bao quát ý nghĩa của nhiều vấn đề.

Về địa điểm xuất xứ của từng pháp thoại, trong kinh văn không phải lúc nào cũng ghi rõ. Gặp trường hợp các pháp thoại không trực tiếp ghi địa điểm, khi biên soạn mục Lời Phật dạy, chúng tôi phương tiện bằng cách lần ngược lại phía trước, lấy đó tái xác lập địa điểm để mỗi pháp thoại đạt được hoàn chỉnh và trang nghiêm. Việc làm này rõ ràng có tính chính xác tương đối nên nhân đây, chúng tôi xin thưa rõ để bạn đọc lưu tâm.

Bằng tất cả sự cố gắng và chân thành, Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya, tập I, đã ra mắt bạn đọc. Để có được tập sách này, ngoài nỗ lực của bản thânsự giáo dưỡng, trợ duyên rất nhiều của các bậc thầy, pháp lữ và sự tán trợ của đọc giả. Xin chân thành tri ân và ngưỡng mong chư tôn đức cùng bạn đọc hằng soi sáng, chỉ giáo thêm.

Người biên soạn

QUẢNG TÁNH

LỜI GIỚI THIỆU

 

Lời Phật dạy là một tiểu mục trong chuyên mục Phật học của báo Giác Ngộ. Tiểu mục này được xây dựng từ năm 2003, bằng cách trích tuyển nguyên văn hoặc một phân đoạn của những kinh thuộc Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi Bộ, Tương Ưng BộTiểu Bộ (Kinh tạng Nikàya) đồng thời kèm theo phần Lời bàn ngắn gọn, súc tíchthiết thực.

Nội dung kinh tạng Nikàya bao hàm nền tảng căn bản giáo lý Phật Đà, rất thiết thân, gần gũi, dễ hiểu và dễ ứng dụng thực hành. Trong những năm qua, Lời Phật dạy đã lần lượt giới thiệu đến đọc giả rất nhiều pháp thoại với nhiều đề tài khác nhau. Từ những giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới cho đến Tứ đế, Duyên khởi, Vô ngã; từ những phương thức xây dựng đời sống gia đình an vui hạnh phúc cho hàng Phật tử tại gia, đến các phương pháp tu tập chuyển hóa phiền não nhằm thành tựu các Thánh vị cho hàng đệ tử xuất gia v.v…đều được Lời Phật dạy chuyển tải đến bạn đọc.

Với khuôn khổ nhỏ hẹp của trang báo, chắc chắn rằng nội dung của Lời Phật dạy chưa thể hiện được hết đầy đủ yếu nghĩa của Kinh tạng. Tuy vậy, với sự tìm tòi rất công phu trong Kinh tạng đồ sộ, trích tuyển kinh văn phù hợp với các nội dung tu tập của từng tời điểm trong năm cùng với cước chú chi tiết nguồn gốc mỗi bản kinh và nhất là phần lời bàn giản dị mà sâu sắc của tác giả đã giúp cho tiểu mục Lời Phật dạy được đông đảo bạn đọc quan tâm, ủng hộ.

Nay nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập và thể nghiệm lời Phậ dạy của bạn đọc, tác giả tiểu mục Lời Phật dạy tập hợp các bài viết đã đăng báo theo từng chủ đề và in thành sách Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya (tập I, II và III). Thiết nghĩ, tập sách này là hành trang cần yếu cho những ai quan tâm nghiên tầm, học tập những tinh hoaĐức Phật đã dạy. Với cổ xưa nhất của kinh tạng Nikàya, hy vọng độc giả sẽ được gội nhuần trong phạm âm vi diệu của Thế Tôn, thuở Ngài còn tại thế.

Trân trọng giới thiệu sách Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya (tập I) đến với bạn đọc gần xa.

TP. HCM, ngày 25 tháng 3 năm 2008

Tổng biên tập Báo Giác Ngộ

Hòa thượng Thích Trí Quảng

Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya

NHƯ NGUYỆT

 

Có một người lặng lẽ bao năm tìm đọc trong rừng Kinh tạng Nikàya để thâm nhập ý nghĩa của những lời Phật Thích Ca một thời thuyết pháp độ sanh.

Đức Thế Tôn sau khi giác ngộ đã phương tiện dùng lời nói để giáo hóa chúng sanh trong thời Ngài trụ thế. Vì thế, trong số Kinh tạng Nguyên thủy hiện còn gìn giữ được, lời Phật dạy không chỉ chứa đựng triết thuyếtphương pháp thực hành nhằm đạt giác ngộ, mà những pháp thoại này còn phản ánh đầy đủ bức tranh của xã hội đương thời.

Tìm về lời Phật trong kho tàng kinh điển Nikàya, tác giả Quảng Tánh bao năm nay như tự đặt mình vào không gian của Ấn Độ thời cách nay hơn 2.500 năm, chứng kiến trường hợp ra đời của những bài pháp thoại của Thế Tôn, và chiêm nghiệm những gì ẩn tàng bên trong kim ngôn của Đức Phật.

Người chí tâm học đạo, y cứ trên kinh văn gốc và suy nghiệm về giáo lý của Thế Tôn với mong mỏi tiếp cận một cách chân thực nhất giáo nghĩa đang làm lợi lạc cho chúng sinh bao đời nay. Công hạnh ấy lại càng được tán thán khi tác giả Quảng Tánh không ngại hổ mình, đứng ra đảm đương mục “Lời Phật dạy” trên báo Giác Ngộ suốt 5 năm qua.

Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật. Chuyên mục “Lời Phật dạy” chủ trương trích nguyên văn từ Kinh tạng Nikàya những lời dạy của Đức Phật với sự hệ thống về chủ đề cũng như chọn lựa nội dung phù hợp dòng chủ lưu thời sự đang chuyển tải trên báo. Thêm vào đó là những “lời bàn” ngắn gọn, không nhằm ý giảng giải lời Phật, mà người giữ mục như muốn chia sẻ ý kiến của mình về nội dung lời kinh được trích, đồng thời cũng liên tưởng đến những nội dung kiến thức cần tham chiếu để người học đạo qua đó có thể hiểu thêm lời kinh.
Chẳng hạn, trong bài “Hai hạng người đáng được cúng dường” trích từ kinh Tăng Chi Bộ, trong “lời bàn” tác giả đã nói rõ thêm về công hạnh của việc cúng dường, như thế nào là “như pháp cúng dường”… giúp người đọc có thể tham chiếu để hiểu thêm kinh văn.
Đây cũng là một cách gieo duyên cho những ai trên đường học Phật, có thể tiếp cận lời dạy của Phật Thích Ca từ góc độ “thời sự” của hôm nay.

Duy trì một chuyên mục như thế, đòi hỏi không chỉ tâm huyết của người giữ mục, mà khối lượng kiến thức sở đắc, sự nhạy bén trước thời cuộc, tâm nguyện muốn khơi dòng cho Phật đạo chảy mãi trong chúng sinh… là những phẩm hạnh không thể thiếu.
Thời gian qua, nội dung của chuyên mục “Lời Phật dạy” thu hút nhiều độc giả. Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng từng tâm đắc với chuyên mục này, đặc biệt là sự “ăn khớp” giữa nội dung lời kinh với những vấn đề Phật sự đang được công chúng quan tâm trên báo.
Đến nay, tất cả nội dung từ chuyên mục này được biên soạn thành tập sách Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya(*) là một tín hiệu vui cho những độc giả bấy lâu theo dõi.

Thoát khỏi dòng chảy thời sự, những bài viết từ chuyên mục “Lời Phật dạy” chuyển vào trong tập sách này được hệ thống thành 12 chủ đề: Lòng tin; Bố thí & cúng dường; Làm giàu; Tài sản; Cư sĩ; Xuất gia; Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi; Nhân quả; Hiếu đạo; Giới; Định; Tuệ. Có thể xem 12 chủ đề này là 12 nội dung lời dạy của Phật được giới thiệu trong tập 1 của bộ sách. Mỗi nội dung, soạn giả chủ ý chọn một lượng bài viết nhiều hay ít đủ để người đọc hiểu được lời Phật dạy về nội dung đó.

Chẳng hạn, trong nội dung “Làm giàu”, tác giả chọn sáu bài viết về: Kinh doanh thành công, Không kinh doanh phi pháp, Làm giàu, Giàu lên dễ sanh tật, Có mắt mà như mù, Sự nghèo khổ. Với sáu góc độ được phân tích như vậy, người đọc dễ dàng nhận ra quan điểm của đạo Phật (trực tiếp từ kim ngôn của Thế Tôn) về làm giàu. Đây chính là giá trị thiết thực của tập sách. Bởi tất cả nội dung được tuyển chọn không rời các vấn đề chúng sanh đang đối mặt hàng ngày. Có như vậy, người học đạo mới tìm ra con đường gần nhất, ngay tại môi trường sống của mình, mà vẫn theo được dấu chân của Như Lai.

Có như vậy, Phật pháp mới không rời thế gian pháp.

(*) Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya, tập 1 – Biên soạn Quảng Tánh – NXB Tôn Giáo - ấn hành quý 2 – 2008.

Những bài học quý từ Kinh tạng Nikàya

LAM ĐIỀN

 

Những bài Phật học trích từ kinh tạng Nikàya do tác giả Quảng Tánh đứng mục trên Giác Ngộ lại được tập hợp thành sách để ra mắt bạn đọc. “Lời Phật dạy trong kinh tạng Nikàya - tập II” (Nxb Tôn Giáo - quý II, 2009) là những bài kinh có từ lúc Thế Tôn còn tại thế, được thuật lại theo hướng tiếp cận như với những câu chuyện của cuộc sống đương đại cùng với lời bình nhằm góp phần ứng dụng triết lý Phật giáo trong đông đảo quần chúng.

Tiếp cận Kinh tạng Nikàya là tìm về những văn bản có độ tin cậy cao nhất ghi lại lời thuyết pháp từ kim khẩu của Thế Tôn. Giữa muôn trùng lời kinh, việc chọn lọc những câu chuyện gần gũi với cuộc sống, phù hợp với cách tiếp nhận đạo Phật và chứa đựng lợi ích thiết thực của người dân Việt khi hành trì, là cả một nghệ thuật.

Với cách chọn lọc và giới thiệu các bài kinh vừa không quá hàn lâm khó hiểu vừa [trong chừng mực nào đó] phù hợp với dòng chủ lưu thời sự trong đời sống truyền thông, chuyên mục “Lời Phật dạy” trên Giác Ngộ đã dần trở thành điểm quan tâm của độc giả - những người có ít nhiều quan tâm đến Phật pháp và đang tìm cho mình cách sống lành mạnh theo giáo lý nhà Phật.

Nay, những bài báo được tâp hợp thành sách, bạn đọc có trên tay toàn cảnh của rừng Pháp Như Lai được người biên soạn mở từng cánh cửa và hướng đến mọi người: Ăn uống & sức khỏe; Ngủ nghỉ, thư giãn; Nam giới; Phụ nữ; Cầu nguyện; An cư; Già chết; Thuyết pháp & Nghe pháp; Chư thiên & Ma quỷ; Tham ái; Sân hận; Si mê.

Việc chắt lọc từ kinh tạng nguyên thủy thành một tập sách với những chương mục như thế, là cách làm mạch lạc, đặt vào tay người học Phật những đề mục cụ thể, thiết thực, kèm với mỗi bài kinh là những dòng bình luận, gợi ý, phân tích, hoặc đề nghị một vài cách thực hành… quả là công việc của thiện tri thức. Điều đáng quý là chủ ý của người biên soạn muốn cùng với độc giả lần tìm trong nhiều ngóc ngách lời dạy của Thế Tôn. Nội dung sách không chỉ đề cập đến việc thuyết phápnghe pháp, chuyện cầu nguyệnan cư, mà soạn giả cũng mạnh dạn đề cập những nội dung thiết thực rất đời thường như: Người đàn ông lý tưởng, Sinh con trai - con gái, Sự trói buộc giữa nam và nữ… (chương Nam giới), hay như những bài giảng của Thế Tôn về: Người con gái trước thềm hôn nhân, Người vợ lý tưởng, Dễ thương như người vợ trẻ… (chương Phụ nữ) đã làm “mềm hóa” những bài giảng của Đức Phật. Chẳng hạn như những lời giáo huấn của Thế Tôn về công việc làm dâu với những người con gái của Uggaha: vừa dặn dò cách vén khéo những công việc trong nhà chồng, vừa chỉ cách cư xử sao cho phải đạo dâu con, lại khuyên nhủ nên cẩn thận với người gian để giữ gìn an ổn cho cuộc sống nhà chồng… Lòng từ mẫn của Thế Tôn như thế, được trình bày bên cạnh những bình luận cần thiết của soạn giả, thật sự gây xúc động cho người đọc. Qua đó, càng thấy triết lý nhà Phật không phải chỉ là những ý tưởng cao xa kỳ vĩ, mà những lời từ Thế Tôn truyền lại đến ngày nay vẫn còn nguyên tính khả thi, vẫn cần cho những ai đang khát khao tìm kiếm một liệu pháp an định thân tâm giữa cuộc đời bề bộn hôm nay.

Hàm lượng tri thức của các vấn đề được đề cập ở đây đã vượt qua khuôn khổ một tập sách hơn hai trăm trang. Có lẽ, tác giả tập sách cũng xuất phát từ tinh thần cầu học vô ngại, nên có nhiều vấn đề thuộc loại “kính nhi viễn chi”của Nho gia, thì ở đây, cũng được trình bày dưới ánh sáng của triết lý Phật giáo. Đó là những bài ở chương “Chư thiên và ma quỷ”. Các khái niệm “phi nhân”, “ngạ quỷ”, “ác ma”… trong kinh Phật thuyết cách đây hàng nghìn năm, sẽ rất khó thuyết phục độc giả hiện đại nếu người viết không cẩn trọng phân tích, và đề xuất những cách hiểu hợp lý cho người học Phật ngày nay.

Ở đây, tác giả chẳng những cẩn trọng đối với các nội dung ấy, mà còn dành hẳn ba chương của tập sách để trình bày về tham, sân, si - những tập khí sâu dày khiến chúng sinh trầm luân trong khổ. Ngày nay, có nhiều doanh nhân, trí thức tìm đến Phật pháp như một liệu pháp an thần, và sau khi tham cứu, nghe giảng, cũng lờ mờ hiểu rằng: giải thoát có thể bắt đầu từ diệt trừ tham, sân, si. Nhưng về vấn đề đó, ngày xưa Đức Phật từng giảng thế nào, đề cập trong những bài kinh nào, ý nghĩa ra sao, ngày nay chúng ta còn có thể áp dụng để hành trì được không… là những băn khoăn quan trọng của nhiều người. Tác giả Quảng Tánh không ngại nhọc công, đã lần tìm trong kinh tạng, lọc lấy những lời giảng của Thế Tôn về các chủ đề ấy, hệ thống để giới thiệubình luận để làm rõ thêm ý nghĩa của bản kinh, quả là công việc mang lại nhiều lợi lạc cho độc giả. Qua từng trang sách, người học Phật thấy thú vị như mình được chia sẻ bởi những khám phá rất sinh động. Như có người ngoại đạo kia, xem việc hành tịnh thủy sẽ rửa được tội lỗi, khi nghe Phật Thích Ca giảng cho rằng, thực ra, “Chánh pháp là ao hồ/ Giới là bến nước trong/ Không cấu uế, trong sạch/ Được thiện nhơn tán thán/ Là chỗ bậc có trí/ Thường tắm trừ uế tạp/ Khi tay chân trong sạch/ Họ qua bờ bên kia”, thì phát tâm quy y Phật. Người học Phật cũng gỡ dần những lớp vô minh nơi mình bằng sự soi chiếu của ánh sáng từ những bài kinh như vậy. Lành thay.

MỤC LỤC TẬP I
I- LÒNG TIN

1- Lợi ích của lòng tin 12
2- Biểu hiện của lòng tin 14
3- Chánh tín 16
4- Lòng tintài sản tối thượng 18
5- Chỉ tin một người 20
II- BỐ THÍ & CÚNG DƯỜNG
1- Phước báo thù thắng của bố thí 24
2- Bố thí & cúng dường như pháp 26
3- Tương quan giữa cho và nhận 28
4- Bố thí với tâm rộng lớn 30
5- Cội phước 32
6- Bố thí thanh tịnh 34
7- Nhân duyên của giàu và nghèo 36
8- Hai hạng người đáng được cúng dường 38
9- Người cày ruộng 40
10- Xứng đáng là ruộng phước 42
III- LÀM GIÀU
1- Kinh doanh thành công 46
2- Không kinh doanh phi pháp 48
3- Làm giàu 50
4- Giàu lên dễ sanh tật 52
5- Có mắt mà như mù 54
6- Sự nghèo khổ 56
7-Buôn bán phát tài 58
8- Chủ nhân & người làm 60
IV- TÀI SẢN
1- Tài sản của người tu 64
2- Giữ gìn tài sản 66
3- Động sản & bất động sản 68
4- Có tài sản lớn 70
5- Nguyên nhân phung phí tài sản 72
6- Kế thừa gia tài Chánh pháp 74
V- CƯ SĨ
1- Hoa sen trong giới nam cư sĩ 78
2- Người cư sĩ 80
3- Bổn phận người gia chủ 82
4- Cư sĩ chứng quả Dự lưu 84
5- Lật úp bình bát 86
6- Thọ trì năm giới 88
7- Hương đức hạnh 90
8- Những gia đình chư Tăng không nên đến 92
VI- XUẤT GIA
1- Ba hạnh của Sa môn 96
2- Khất sĩ 98
3- Bậc trưởng lão 100
4- Năm hạng người ăn bình bát 102
5- Sống biệt lập 104
6- Không nên sống quá lâu ở một nơi 106
7- Bốn hạng thuyết trình 108
8- Ba việc trọng yếu của người tu 110
9- Xứng đáng được xây tháp 112
10- Xuất gia khi tuổi xế chiều 114
11- Hoàn tục 116
12- Khó làm 118
13- Hóa duyên 120
14- Thiền & Giáo 122
15- Đến với gia chủ 124
VII- HÃY TỰ MÌNH THẮP ĐUỐC LÊN MÀ ĐI
1- Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn 128
2- Tránh xa hai cực đoan 130
3- Dòng đời xuôi ngược 132
4- Sanh tử là việc lớn 134
5- Chớ khinh thường trẻ tuổi 136
6- Nắm lá trong bàn tay 138
7- Hạt muối 140
8- Tinh cần 142
9- Sợ hãi 144
VIII- NHÂN QUẢ
1- Trường thọ & đoản thọ 148
2- Vu khống bậc Thánh 150
3- Đẹp & xấu 152
4- Quả báo 154
5- Hai loại tội 156
6- Khó được ở đời 158
IX- HIẾU ĐẠO
1- Thâm ân nan báo 162
2- Bao la tình mẹ 164
3- Cha mẹ & con cái 166
4- Người thực sự có hiếu không nhiều 168
5- Khuyến hóa cha mẹ hướng thiện 170
6- Phước báo hiếu dưỡng 172
X- GIỚI
1- Rùa & dã can 176
2- Biển lớn không dung chứa tử thi 178
3- Chánh mạng 180
4- Vui trong Chánh pháp 182
5- Mang y bát đẹp bị Phật quở 184
6- Không phòng hộ 186
7- Tội lỗi 188
8- Sống với người thứ hai 190
9- Lợi ích của giữ giới 192
XI- ĐỊNH
1- Sơ thiền 196
2- Tứ niệm xứ 198
3- Mạng người trong hơi thở 200
4- Tâm cấu uế 202
5- Niệm Phật 204
6- Trung đạo 206
7- Đất lành chim đậu 208
8- Ung nhọt 210
XII- TUỆ
1- Trí tuệtối thượng 214
2- Vô minh & tuệ giác 216
3- Chánh tri kiến 218
4- Không phải của tôi 220
5- Tu tập tánh Không 222
6- Người mù sờ voi 224
7- Vô minhcấu uế lớn nhất 226
8- Bọt nước 228
9- Có & Không 230
10- Tàm & quý 232
11- Tuệ giác vô ngã 234

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13770)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13163)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13603)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12514)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12108)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12937)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13031)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13261)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21373)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143877)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15701)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81334)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19600)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20260)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19289)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15207)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13082)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13152)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49027)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14802)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18646)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16434)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19395)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28062)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22197)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23344)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64862)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33249)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40205)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27339)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74924)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36168)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49015)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31030)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33958)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58856)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46287)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43849)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43241)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45963)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48048)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34645)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33462)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43943)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52960)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40496)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43504)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31476)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28716)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31904)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28847)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33385)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60999)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39789)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29691)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37404)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42689)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 26410)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant