Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ 6

06 Tháng Giêng 201508:49(Xem: 9330)
Quyển Thứ 6

QUYỂN THỨ SÁU

CHƯƠNG THỨ CHÍN

GIẢI OAN THÍCH KIẾT

( Tiếp theo)

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng trước hết là hướng về nơi tứ sanh lục đạosám hối ác nghiệp của thân.

Kinh dạy rằng:

“Có thân thời có khổ không thân thời không khổ”.

Thế thì thân nầy là nguồn gốc của khổ.

Những ác báo khốc liệt trong ba đường đều do thân mà có. Chứ chưa thấy việc gì người làm mình chịu, hay mình làm người chịu. Mình làm mình chịu. Mình gây nhơn mình tự chịu quả.

Nếu tạo thành một nghiệp, tội đã không bờ bến, huống nữa chung thân làm ác, tội biết bao nhiêu?

Nay ta chỉ biết có thân ta, không biết có thân người, chỉ biết có thân ta đau khổ, không biết có người đau khổ.

Chỉ biết có ta cầu an vui; không biết người cũng cầu an vui.

ngu si nên chúng ta sanh tâm bỉ ngã, sanh tưởng oán thân, nên có oán thù cùng khắp lục đạo.

Nếu không giải oán kiết thì biết lúc nào ra khỏi lục đạo; cứ ở mãi trong ấy kiếp nầy sang kiếp khác, há không đau lòng sao?

Hôm nay Đại chúng khởi tâm dõng mãnh sanh đại hổ thẹn, làm lễ đại sám hối, quyết lòng khiến một niệm cảm mười phương Phật, một lạy đoạn trừ vô lượng oán kiết. Đồng nhau một lòng tha thiết đảnh lễ quy y. Thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Nguyệt Diện Phật

Nam mô Bảo Đăng Phật

Nam mô Bảo Tướng Phật

Nam mô Thượng Danh Phật

Nam mô Tác Danh Phật

Nam mô Vô Lượng Âm Phật

Nam mô Vi Lam Phật

Nam mô Sư Tử Thân Phật

Nam mô Minh Ý Phật

Nam mô Vô Năng Thắng Phật

Nam mô Công Đức Phẩm Phật

Nam mô Nguyệt Tướng Phật

Nam mô Đắc Thế Phật

Nam mô Vô Biên Hạnh Phật

Nam mô Khai Hoa Phật

Nam mô Tịnh Cấu Phật

Nam mô Kiến Nhất Thế Nghĩa Phật

Nam mô Dõng Lực Phật

Nam mô Phú Túc Phật

Nam mô Phước Đức Phật

Nam mô Tùy Thời Phật

Nam mô Quảng Ý Phật

Nam mô Công Đức Kỉnh Phật

Nam mô Thiện Tịch Diệt Phật

Nam mô Tài Thiên Phật

Nam mô Khánh Âm Phật

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực và hết thảy Hiền Thánh lực khiến tất cả chúng sanh có oán thù trong tứ sanh lục đạo đồng đến đạo tràng. Mọi người trong Đại chúng đều sám tạ, tâm niệm miệng nói lời như thế nầy:

Chúng con tên . . .  từ vô thỉ vô minh trú địa (1) trở lại cho đến ngày nay, do vì nhân duyên ác nghiệp của thân, hoặc đối với các cõi trời, cõi ngườigây thù kết oán, hoặc đối với loài a tu la loài địa ngụcgây thù kết oán; nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, và hết thảy Hiền Thánh lực, khiến các chúng sanh có tâm oán hận ba đời, ở trong tứ sanh lục đạo, hoặc có oán thù hay không phải oán thù hoặc khinh hoặc trọng, nhờ sự sám hối hôm nay mà tội lỗi đều tiêu diệt, thân tâm được thanh tịnh, không còn chịu đau khổ trong ba cõi. Sanh ra nơi nào cũng thường gặp được chư Phật.

Lại nữa, những người hiện đồng sám hối hôm nay, từ vô thỉ sanh tử trở lại cho đến ngày nay vì nhơn duyên ác nghiệp của thân mà gây oán kết thù với hết thảy chúng sanh trong ác đạo; hoặc do vì sân hận, hoặc do vì tham ái, hoặc do vì ngu si, từ ba độc căn (2) ấy mà sanh ra mười ác nghiệp: ưa giết hại cầm thú, đoạn mạng trâu dê v.v... hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà cửa, hoặc vì tiền tài, trở lại giết hại lẫn nhau. Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì lợi dưỡng mà giết lầm chúng sanh, hoặc giả làm thầy thuốc châm chích bách tánh, những tội như vậy, oán thù vô lượng; ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa, từ vô thỉ cho đến ngày nay, hoặc làm chúng sanh đói khát, hoặc giựt lương thực của người, hoặc bức ép chúng sanh uống mặn, nuốt đắng, hoặc đoạn nước uống của người; bao nhiêu nghiệp ác như vậy, sanh ra oán thù, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, xa lìa minh sư thân cận bạn ác, do thân ba nghiệp tạo bao nhiêu tội, buông lòng giết hại người vô tội cách yểu uổng; hoặc phá triệt ao hồ, bít lấp ngòi rãnh, não hại các loài lớn bé dưới nước, hoặc thiêu đốt núi rừng, hoặc bủa giăng chải lưới sát hại tất cả chúng sanh dưới nước. Oán thù như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ cho đến ngày nay, tâm không từ bi, hạnh không bình đẳng, vặn căn bẻ móc, vào già ra non, (đong đầy gạt lưng) xâm lấn người hèn hạ, hoặc phá hoại làng xóm của người, dành giựt cướp đoạt, cắp trộm của người để cung cấp  cho mình, thiếu lòng thành tín, sát hại lẫn nhau. Những oán thù như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay tâm không từ bi, hạnh không từ bi, đối với chúng sanh trong sáu đường làm đủ mọi điều khổ sở, hoặc đánh đập bà con, không kể đạo tình quyến thuộc, hoặc trói buộc giam cầm ngục tối, hoặc tra khảo ngửa nghiêng, đâm bắn thương tích, hủy hoại thân thể, chém chặt tàn hại, lột da xẻ thịt, nấu nướng chiên xào.

Những oán thù như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do ba ác nghiệp của thân, bốn ác nghiệp của miệng, ba ác nghiệp của ý, tạo ra những tội tứ trọng (3) ngũ nghịch, bao nhiêu điều ác đều làm hết.

Tự ỷ mình tuổi cao mạng lớn, không sợ quỉ thần, chỉ sợ mình không hơn người, sợ người hơn mình, hoặc ỷ thế cao dòng lớn họ mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc ỷ mình nghe nhiều hiểu rộng mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì văn chương kỹ nghệ mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì khoe giàu, xa xỉ mà khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì ăn nói sắc xảo mà khinh người ngạo vật gây ra oán thù như vậy.

Những oán thù ấy hoặc đối bên hình tượng Phật Thánh, không tâm cung kính mà sanh ra, hoặc đối với Hòa thượng, A xà lê mà sanh ra, hoặc đối với các bậc Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa chung ở với nhau mà sanh ra; với quyến thuộc của những người đồng tu học mả sanh ra, hoặc đối với cha mẹ bà con thân thích mà sanh ra.

Những oán thù như vậy, vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ đến ngày nay, hoặc đối với các loài trời, loài người mà sanh thù kết oán, hoặc đối với loài a tu la, loài địa ngục mà sanh thù kết oán, hoặc đối với các loài súc sanh, loài ngã quỉ mà sanh thù kết oán, rộng ra cho đến đối với hết thảy các loài chúng sanh trong mười phươnggây thù kết oán.

Những tội ác ấy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa, chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì tật đố, hoặc vì siểm khúc để cầu cho mình hơn người, hoặc vì danh dự, hoặc vì quyền lợi mà theo ngoại đạo tà kiến không biết hổ thẹn, gây thù kết oán như vậy, hoặc nặng hoặc nhẹ, tội nhơn khổ quả, số lượng nhiều ít, chỉ có chư Phật, chư đại Bồ tát mới thấy hết biết hết.

Nguyện xin chư Phật Đại Bồ tát dủ lòng thương xót chúng con. Như chúng con từ vô thỉ trở lại đây đã tạo ra bao nhiêu tội lỗi, koặc tự làm, hoặc dạy người làm, hoặc thấy người làm sanh tâm tùy hỷ; hoặc chúng con tự lấy của Tam bảo, hoặc dạy người lấy của Tam bảo, hoặc thấy người lấy mà sanh tâm tùy hỷ, hoặc có che dấu hoặc không che dấu, các tội nói trên, như chỗ chư Phật, chư đại Bồ tát đã thấy, đã biết, tội lượng nhiều ít, đáng đọa địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, sa vảo các đường ác, biên địa hà tiện để chia các oán thù, ngày nay chúng con sám hối nguyện xin trừ diệt hết.

Thần lực của chư Phật không thể nghĩ bàn, xin Phật dủ lòng từ bi cứu vớt hết thảy chúng sanh.

Chúng con tên . . .  nay hướng về tứ sanh lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng hết thảy bà con quyến thuộcsám hối tội đã làm cởi mở oán thù. Nguyện xin Tam bảo khiến hết thảy chúng sanh trong lục đạo, có tâm oán thù chúng con, đều hoan hỷ xả bỏ tất cả oán thù, không còn sanh tâm phân biệt oán thân, đối với nhau đều vô ngại như hư không.

Nguyện xin từ nay cho đến ngày thành Phật đoạn trừ hết kiết tập phiền não . . .

Ba nghiệp thanh tịnh không còn oán hận, tùy ý sanh lên thiên cung bảo điện, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường hay tu hành, trăm phước nghiêm thân, vạn thiện đầy đủ, an trú vào nơi đại định Thủ Lăng Nghiêm, chứng thân kim cang. Trong khoảng một niệm, hiện thân khắp sáu đường, tế độ hết thảy chúng sanh đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã sám hối được thân tội, thì thân nghiệp được thanh tịnh. Còn lỗi của khẩu nghiệp nay phải sám hối. Khẩu nghiệp là cái họa môn của hết thảy oán thù. Cho nên các đức Phật đều dạy không được nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói dối, nói thêu dệt. Nên biết lời nói dua nịnh quanh co, hoa mỵ hay đem lại thị phi tai họa không phải là ít, mắc phải quả báo rất nặng.

Than ôi! người đời, tâm ôm lòng ác độc, miệng nói lời ác độc, do ba điều ấy mà hại chúng sanh, chúng sanh bị độc hại liền kết oán hận, thề quyết báo thù, hoặc đời nầy toại nguyện, hoặc chết rồi mang theo. Chúng sanh kết oán như vậy khắp cả lục đạo để báo thù nhau, không bao giờ cùng tận.

Báo thù nhau như vậy đều do túc nghiệp đời trước đã gây ra, chớ không phải vô cớ, không có nguyên nhơn.

Thân ba nghiệp, miệng bốn nghiệp. Những nghiệp ấy mới thật là nguồn gốc của tội ác.

Người tại gia không trung hiếu chết vào núi Thái sơn, chịu sự thảm khốc của lửa nóng nước sôi. Người xuất gia không vì Phật pháp sau sẽ sanh về chỗ của người ác thường ở để chịu oán thù. Oán thù theo nhau như thế đều do ba nghiệp.

Trong ba nghiệp ấy khẩu nghiệp nặng nhất, cho nên phải mắc đủ thứ quả báo đau khổ, trong đêm dài mù mịt mà không hay không biết.

Ngày nay Đại chúng trong đồng nghiệp trong Đạo tràng biết rằng chúng ta sở dĩ luân hồi mãi trong lục đạo đều do khẩu nghiệp, hoặc buông lời khinh khi thô tháo, miệng nói sắc xảo biện bác xảo lanh, nói lời phủ phiếm, dối trá quỉ quyệt, lời nói không đi đôi với việc làm, nên mắc phải ác báo nhiều kiếp không thôi.

Vậy Đại chúng đâu có thể không sợ hãi, không hết lòng sám hối, không tẩy trừ tội lỗi ấy đi.

Chúng con từ khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay khẩu nghiệp bất thiện, không tốt đối với tứ sanh lục đạo, cha mẹ Sư trưởng tất cả bà con, không có điều ác gì của các người ấy mà chúng con không tuyên truyền. Chúng con nói lời thô xẳn phát tiếng bạo hạnh hủy báng chê bai, bạn bè chơi nhỏi nhóm họp mà nói xấu, nói lời vô nghĩa. Chỉ không nói có, chỉ có nói không, thấy nói không thấy, không thấy nói thấy. Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe, làm nói không làm. không làm nói làm.

Nói ngược nói xuôi như vậy, đảo lộn trời đất, để lợi mình hại người dèm chê lẫn nhau.

Nói đến mình thì bao nhiêu phước đức đều quy tụ về cho mình. Nói đến người thì bao nhiêu đều ác độc đều đổ  xô về cho người.

Cho đến khen chê tố cáo Thánh Hiền, so lường vua tôi, cân nhắc cha con, cơ hiềm Sư trưởng, hủy báng thiện tri thức, vô đạo, vô nghĩa, không ngó lại tai nạn u ách ở đời tán hình mất mạng, đời sau thống khổ vĩnh kiếp mắc phải quả báo ác.

Vả chăng vừa cười giỡn đó, trong khoảnh khắc liền chịu vô lượng trọng tội, huống nữa, dùng lời ác mà làm hại cho tất cả.

  Đệ tử chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do khẩu ác nghiệp, đối với các loài trời, loài người mà có oán thù đối với loài a tu la loài địa ngục mà oán thù, đối với loài ngã quỉ, loài súc sanh mà có oán thù, đối với cha mẹ, Sư trưởng và tất cả bà con mà có oán thù, đệ tử chúng con tên . . .  do lòng từ bi, đồng tu như Bồ tát, đồng nguyện như Bồ tát, xin thay thế cho tất cả chúng sanhđảnh lễ quy y, thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Tịnh Đoạn Nghi Phật.

Nam mô Vô Lượng Trì Phật.

Nam mô Diệu Lạc Phật

Nam mô Bất Phụ Phật.

Nam mô Vô Trú Phật.

Nam mô Đắc Xoa Ca Phật.

Nam mô Chúng Thủ Phật.

Nam mô Thế Quang Phật.

Nam mô Đa Đức Phật.

Nam mô Phất Sa Phật.

Nam mô Vô Biên Oai Đức Phật.

Nam mô Nghĩa Ý Phật,

Nam mô Dược Vương Phật.

Nam mô Đoạn Ác Phật.

Nam mô Vô Nhiệt Phật.

Nam mô Thiện Điều Phật.

Nam mô Danh Đức Phật.

Nam mô Dõng Đức Phật.

Nam mô Hoa Đức Phật.

Nam mô Kim Cang Quân Phật.

Nam mô Đại Đức Phật

Nam mô Tịch Diệt Ý Phật

Nam mô Hương Tượng Phật

Nam mô Na La Diên Phật

Nam mô Thiện Trú Phật

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Diệu Âm Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hêt thảy Tam bảo.

Nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, Hiền Thánh lực, khiến tất cả chúng sanh trong tứ sanh lục đạo giác ngộ trở lại mà đến Đạo tràng.

Nếu người nào có thân hình bị câu thúc trở ngại, có tâm mà không đến được nguyện, Xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, Hiền Thánh lực thâu nhiếp tinh thần của những người ấy khiến tất cả đều đến được Đạo tràng nầy, thọ lãnh sự sám hối khẩu nghiệp của chúng con; từ vô thỉ vô minh trú địa trở lại cho đến ngày nay vì nhơn duyên của nghiệp ác khẩu, đối với chúng sanh trong lục đạo, tạo ra đủ mối oán thù, nguyện xin nhờ sức oai thần của Tam bảo khiến cho tất cả oán thù kết lại trong ba đời của tứ sanh lục đạo, nhơn sám hối nầy mà được trừ diệt.

Chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay hoặc vì sân khuể, hoặc vì tham ái, hoặc vì ngu si, từ ba độc căn, tạo mười ác hạnh, do bốn ác nghiệp của miệng tạo ra vô lượng tội. Hoặc do ác khẩunão loạn cha mẹ, Sư trưởng quyến thuộc, và tất cả chúng sanh; hoặc đối với cha mẹ khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với Sư trưởng khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với quyến thuộc khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với tất cả chúng sanh khởi ra nghiệp nói dối, hoặc thấy nói không thấy, không thấy nói thấy; hoặc nghe nói không nghe, không nghe nói nghe; hoặc biết nói không biết, không biết nói biết; hoặc vì kiêu mạn, hoặc vì tật đố khởi ra nghiệp nói dối.

Những tội ác như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay khởi ra nghiệp hai lưỡi, thọ lãnh lời ác của người khác không thể che giấu; đến người nầy nói người kia, đến người kia nói người nầy; làm cho người nầy chia rẽ người kia, làm cho người kia đau khổ; hoặc vì cười giỡn, làm cho hai bên đấu tranh nhau, cốt nhục chia lìa; phá quyến thuộc của người, sàm loạn quân thần nhiễu hại tất cả.

Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, tạo tội ỷ ngữ, nói lời vô nghĩa, lời không lợi ích hoặc làm phiền não cha mẹ; hoặc làm phiền não Sư trưởng; hoặc làm phiền não bạn đồng học, cho đến đối với hết thảy chúng sanh trong lục đạo khởi tâm não hại.

Như vậy khẩu nghiệp khởi ra oán thù vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực và hết thảy Hiền Thánh lực, ngày nay chúng con sám hối, khiến cho tất cả oán thù ba đời trong bốn loài sáu đường, hết thảy sự gây thù kết oán hoàn toàn giải thoát, bao nhiêu tội nghiệp đều tiêu trừ, hoàn toản không trở lại gây thù kết oán nữa, không đọa trở lại trong ba đường ác nữa, rốt ráo không trở lại trong lục đạo hòng làm khổ sở độc hại nhau nữa.

Từ nay trở đi xả bỏ tất cả oán thù không còn phân biệt oán, thân, tất cả đều hòa hiệp như nước và sữa, tất cả đều hoan hỷ như ỏ sơ địa hằng làm pháp thân, từ bi quyến thuộc.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, không còn trở lại chịu quả báo trong ba cõi, đoạn ba nghiệp chướng, trừ năm bố úy, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật tăng tấn thâm tu, hành đạo đại thừa, vào trí huệ Phật. Hết thảy hạnh nguyện đầy như biển cả. Lục thông, Tam minh, thảy đều thông suốt, chứng pháp Tam mật đủ năm phần pháp thân, pháp kim cang huệ, thành quả chủng trí.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã được sám hối thân nghiệp rồi; khẩu nghiệp rồi; thứ lại sám hối ý nghiệp cho được thanh tịnh.

Hết thảy chúng sanh luân hồi sanh tử, không được giải thoát đều do ý nghiệp.

Thập ác ngũ nghịch kiết tập kiên cố quyết định đều do ý nghiệp. Cho nên Phật dạy rằng: Không đọan được tham dục sân nhuếngu si tà kiến, thì sau phải đọa địa ngục chịu khổ vô cùng. Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau nhận thấy rằng: cái tâm nó thức đẩy cái thức làm việc cũng như vua chỉ huy tất cả đình thần.

Miệng nói lời ác, thân làm việc ác, nên hay chiêu tập quả báo đau khổ kịch liệt trong sáu đường.

Nên biết rằng:  Thân bị hủy diệt tan mất, việc ấy do tâm tạo. Nay muốn sám hối trước phải đoạn trừ cái tâm, sau mới đánh dẹp cái ý. Vì cớ gì vậy? Kinh dạy rằng: “Chế ngự tâm lại một chỗ thì việc gì cũng xong”.

Vậy thì tâm trong sạch, đó là nguồn gốc của giải thoát; ý thanh khiết, đó là nền tảng của tiến hóa.

Được như thế, thì quả báo kịch liệt nơi tam đồ không lại, mà thống khổ vô cùng trong ác đạo cũng chẳng qua. Nhưng thân nghiệp, khẩu nghiệp thô thiển bên ngoài dễ trừ. Ý nghiệp rất vi tế bên trong thật là khó trừ. Như Lai là bậc Đại Thánh, nhất thế trí. Nhơn đối với thân, khẩu, ý mới không cần giữ gìn, phàm phu ngu muội mê lầm, dám không cẩn thận hay sao?

Nếu không đánh dẹp ba nghiệp làm cho ba nghiệp thanh tịnh thì chưa thấy được điều lành của ba nghiệp.

Vì thế nên kinh dạy rằng: “Phòng ngừa cái ý như canh gác cửa thành, giữ gìn cái miệng như bưng kín miệng bình”.

Như thế, chúng con đâu dám không giữ gìn ba nghiệp hay sao. Chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thọ thân nầy do vô minh phát khởi ra ái dục, làm cho thêm lớn đường sanh tử và cũng hay làm điều đủ mười hai điều đau khổ (4) tám tà (5) tám nạn, luân hồi lưu chuyển trong tam đồ lục đạo, không có chỗ nào là không trải qua. Chịu vô lượng khổ trong những chỗ như vậy đều do ý nghiệp cấu tạo sanh ra oán thù. Ý nghiệp niệm niệm phan duyên, chưa từng tạm xả, kích động lục căn, chạy khắp ngũ thể. Những ác nghiệp nặng hay nhẹ đều do ý tạo ra cả.

Nếu thân và khẩu chưa vừa ý thì tâm càng thêm giận dữ độc ác, bèn sát hại nhau, không thương xót.

Như chúng con hơi có chút ghẻ ngứa đã không thể chịu được, giả sử việc ấy ở nơi người khác thì cho sự đau khổ không bao nhiêu.

Thấy lỗi của người lòng muốn tuyên truyền nói ra, tự mình có lỗi không muốn người khác nghe biết. Có tâm niệm như vậy thật là xấu hổ.

Lại nữa ý khởi sân hận là mở đường rộng lớn, rước oán tặc vào tâm. Sở dĩ trong kinh Phật dạy rằng: “Giặc cướp công đức không gì hơn sân khuể”.

Lại nữa kinh Hoa Nghiêm dạy rằng:

Phật tử khởi lên một niệm sân tâm, thì trong tất cả ác tâm không có tâm nào ác hơn nữa.

–   Vì sao vậy?

–   Vì khởi lên một niệm sân thì phải chịu một trăm ngàn vạn sự chướng ngại.

Chướng không thấy Bồ đề

Chướng không nghe được chánh pháp

Chướng làm cho sanh vào đường ác

Chướng sanh ra nhiều tật bệnh. 

Chướng bị người hủy báng.

Chướng sanh ra ám độn.

Chướng làm mất chánh niệm.

Chướng làm cho ít trí huệ.

Chướng làm cho gần ác tri thức.

Chướng không ưa việc hiền lành.

Chướng làm cho xa chánh kiến.

Cho đến xa lìa chánh giáo của Phật, vào cảnh giới của ma, trái với thiện tri thức, các căn khiếm khuyết, sanh vào các nhà làm nghiệp ác, ở nơi biên địa.

Những chướng như vậy đều do sân hận, nhiều không thể kể xiết.

Chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, lẽ ra cũng có vô lượng vô biên ác tâm sân hận cho đến khởi sân hận không kể gì bà con họ hàng, huống nữa là đối với các chúng sanh trong lục đạo. Cho đến do sân hận mà gây ra phiền não mãnh liệt độc ác mà mình không tự biết. Chỉ về phần sự tướng bên ngoài không thực hiện được như ý muốn, chớ về tâm tưởng thì không có việc gì tâm không nghĩ đến.

Giá như điều ác gì tâm đã nghĩ được, đã thực hiện được như ý muốn thì không ai là không khỏi bị khốn khổ.

Bởi thế cho nên một phen thiên tử (vua) nổi giận thì thây phơi đầy đường ngàn dặm.

Từ vua trở xuống thì tự do ngang tàng quấy nhiễu chúng sanh, đánh đập, trói buộc những người có tội. Ngay lúc bấy giờ thì không thể chỉ vào đâu mà nói rằng: ta làm lành được, chỉ sợ đánh người không đau, không nặng, không khốc liệt mà thôi. Đó là sự ác độc của ý nghiệp chung cho tất cả loài hữu tình, trí ngu đều không khỏi. Giàu sang nghèo hèn như nhau mà chưa có một ngày nào biết hổ thẹn ăn năn. Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy phiền não sân hận của ý nghiệp rất sâu kín. Dầu chúng ta có muốn xả bỏ, nhưng gặp cảnh nó cũng sanh tâm, cùng với ác ý hoạt động, niệm niệm xúc chạm nhau, biết lúc nào thoát ly được khổ não ấy. Đại chúng đã biết tội nầy không thể để yên vậy mà không lo sám hối, thì ngày nay phải khấu đầu lễ bái, tỏ hết lòng thành sám hối tội sân hận, nguyện xin trừ diệt. Mọi người phải đầu thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Vô Sở Phụ Phật.

Nam mô Nguyệt Tướng Phật.

Nam mô Điện Tướng Phật.

Nam mô Cung Kỉnh Phật.

Nam mô Oai Đức Thủ Phật.

Nam mô Trí Nhật Phật.

Nam mô Thượng Lợi Phật.

Nam mô Tu Di Đảnh Phật.

Nam mô Trị Oán Tặc Phật.

Nam mô Liên Hoa Phật.

Nam mô Ứng Tán Phật.

Nam mô Trí Thứ Phật.

Nam mô Ly Kiêu Phật.

Nam mô Na La Diên Phật.

Nam mô Thường Lạc Phật.

Nam mô Bất Thiểu Quốc Phật.

Nam mô Thiên Danh Phật.

Nam mô Kiến Hữu Biên Phật.

Nam mô Thâm Lương Phật.

Nam mô Đa Công Đức Phật.

Nam mô Bảo Nguyệt phật.

Nam mô Sư Tử Tướng Phật.

Nam mô Nhạo Thuyền Phật.

Nam mô Vô Sở Thiểu Phật.

Nam mô Du Hý Phật.

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát.

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo, đem từ bi lực, vô lượng vô biên tự tại lực, nạp thọ chúng con tên . . .  ngày nay hướng về tứ sanh lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng, hết thảy bà consám hối bao nhiêu oán thù do ý nghiệp đã kết lại, hoặc có oán thù hay không phải oán thù, hoặc khinh hoặc trọng những oán đã kết rồi, nguyện xin sám hối trừ diệt, những oán chưa kết quyết không dám kết.

Nguyện xin nhờ sức Tam bảo đồng gia tâm nhiếp thọ, thương xót, che chở cho chúng con được giải thoát.

Đệ tử chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do vì nhơn duyên ác nghiệp của ý, nên đối với tứ sanh, lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng và tất cả bà con, mà kết các oán thù, hoặc khinh hoặc trọng, ngày nay hổ thẹn, tỏ bày sám hối, nguyện xin trừ diệt tất cả oán thù.

Lại từ vô thỉ cho đến ngày nay, y nơi gốc ba độc, khởi ra tâm tham, nhơn nơi tham sử, khởi ra tham nghiệp, hoặc u ẩn hay hiển hiện, cùng tận hư không giới, hễ nơi nào, lúc nào thấy người có của thì sanh tâm ác, nghĩ rằng: Ta sẽ lấy của ấy, cho đến của cha mẹ, của Sư trưởng, của bà con, của hết thảy chúng sanh, của chư Thiên, của chư Tiên, những của ấy đều cho là thuộc về ta cả.

Tội ác như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa, tử vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, khởi ra sân nghiệp ngày đêm luôn luôn thiêu đốt thân tâm không có một giờ phút nào tạm thời dừng nghỉ. Có chút gì không bằng lòng, liền nổi giận đùng đùng, đem chúng sanh ra mà não hại đủ điều, hoặc roi gậy đánh đập, hoặc nhận chìm xuống nước, cho đến dùng cách xua đuổi, (bức bách) bỏ đói khát, trói buộc, treo lên trên cao hay nhốt vào phòng tối cho đến chết.

Những tội sân hận như thế vô lượng vô biên, gây ra oán thù không thể kể xiết, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, tùy thuận vô minh, làm những việc ngu si tạo tất cả điều ác; không có trí huệ chân chánh, tin theo lời tà, thọ lãnh pháp tà, những nghiệp si mê như vậy tạo ra oán thù vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trử diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, làm mười tà đạo (6), kết hết thảy oán thù, tạo tất cả ác nghiệp, niệm niệm phan duyên, chưa từng tạm xả, kích động sáu căn khởi các kiết nghiệp, hoặc thời thân khẩu chưa thỏa mãn thì tâm càng thêm độc ác, cho đến giỡn cười, gây ra thị phi. Không dùng tâm ngay thẳng làm việc theo người thường ôm lòng siểm khúc không biết hổ thẹn.

Những tội như vậy, vô lượng vô biên, ở trong lục đạo, chịu đại khổ não, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Đệ tử chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện, ý nghiệp bất thiện. Những ác nghiệp như vậy đối với Phật khởi ra tất cả tội chướng, đối với Pháp khởi ra tất cả tội chướng, đối với Bồ tátHiền Thánh khởi ra tất cả tội chướng. Những tội chướng như vậy vô lượng vô biên, ngày nay chí thành cầu xin sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân ba ác nghiệp, miệng bốn ác nghiệp, ý ba ác nghiệp, tạo ra tất cả tội ngũ nghịch, tứ trọng, ngày nay sám hối nguyện xin trử diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, sáu căn, sáu trần, sáu thức, vọng tưởng điên đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra tất cả các tội, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa tử vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, đối với nhiếp oai nghi giới (7), nhiếp thiện pháp giới (8), nhiếp chúng sanh giới (9), phần nhiều có hủy phạm, sau nầy thân hoại mạng chung phải đọa ba đường ác, ở trong địa ngục chịu vô lượng vô biên hằng sa thống khổ. Sau lại đọa vào ngã quỉ sẽ ngu si, không hiểu biết gì, thường bị đói khát, chịu các nhiệt não, rồi lại đọa làm súc sanh chịu vô lượng khổ, ăn uống thật bất tịnh, cơ hàn khốn khổ. Tội hết được sanh làm người, đọa vào nhà tà kiến, tâm thường siểm khúc, tin lời Tà, mất chánh đạo, chìm vào biển sanh tử không hẹn ngày ra.

Tất cả tội ác, oán thù ba đời như thế nói không thể xiết, chỉ có chư Phật mới thấy hết biết hết. Như chỗ chư Phật đã thấy đã biết, tội báo nhiều ít, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Nguyện xin chư Phật chư Đại Bồ tát đem đại từ bi lực, đại thần thông lực, như pháp điều phục chúng sanh lực khiến chúng con tên . . .  ngày nay sám hối tất cả oán thù liền được trừ diệt. Hết thảy chúng sanh trong lục đạo đã chịu trả oán thù rồi, hay chứa chịu trả oán thù, nguyện xin nhờ sức đại từ bi lực của chư Phật, chư đại Bồ tát và tất cả Hiền Thánh khiến hết thảy kẻ oán thù ấy hoàn toàn giải thoát. Từ nay trở đi cho đến ngày chứng quả Bồ đề, tất cả tội chướng hoàn toàn thanh tịnh không sanh vào đường ác, sanh về tịnh độ, bỏ sống oán thù, được sống trí huệ, bỏ thân oán thù được thân kim cang, bỏ ác đạo khổ, được Niết bàn vui, nhớ ác đạo khổ, phát bồ đề tâm, tứ đẳng lục độ thường được hiện tiền tứ biện lục thông được tự tại như ý, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ tu lên cho đến mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát vô biên chúng sanh.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nguyện xin cho tất cả chúng sanh đời quá khứ, đời hiện tạicùng tận đời vị lai ở trong bốn loài, sáu đường, đều được nhờ sự sám hối hôm nay mà thanh tịnh, đồng được giải thoát, đồng đủ trí huệ, thần thông tự tại. Nguyện xin cho các chúng sanh ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thường thấy được pháp thân của chư Phật khắp mười phương, tận hư không giới, thường thấy thân tử ma kim sắc, ba mươi hai tướng tốt và tám chục vẻ đẹp của chư Phật, phân tán ra khắp mười phương cứu độ chúng sanh; thường thấy chư Phật phóng bạch hào tướng quang ở giữa chặn mày, tế độ chúng sanh đau khổ trong địa ngục.

Lại nguyện xin cho Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, nhờ công đức nhơn duyên sám hối thanh tịnh hôm nay mà từ nay trở đi bỏ thân nầy thọ thân khác, cũng không vào trong địa ngục để chịu những thống khổ, tiêu hình hoại thể, trong vạc nước sôi, lò lửa nóng không trải qua đường ngã quỉ mà chịu các thống khổ đói khát; cổ nhỏ bằng kim, bụng to bằng trống chầu; không trải qua đường súc sanh để đền nợ cũ, trả mạng xưa, chịu các sự phanh thây xẻ thịt, lôi kéo khốn khổ.

Nếu ở trong loài người, thì thân không mắc phải bốn trăm lẻ bốn bệnh khổ não, không chịu khổ đại hàn đại nhiệt khó nhẫn nại; không chịu khổ vì đao gươm, roi gậy đánh đập, thuốc độc, não hại khốn khổ; không gặp phải tai nạn đói khát khốn khổ.

Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi giữ giới trong sạch, không làm ô uế đạo tâm, thường tu nhơn nghĩa, niệm tưởng báo ơn, cúng dường cha mẹ như cúng dường Phật không khác, phụng sự Sư trưởng như đối chư Phật, kính trọng quốc chủ như thường trú Pháp thân, đối với mọi người như mình không khác.

Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, hiểu thấu nghĩa lý sâu mầu của chư Phật, tâm trí không sợ hãi, rõ thông đại thừa, thông suốt chánh pháp liền tự khai giải, không phải nhờ ai chỉ bày, một lòng kiên cố cầu đạo Bồ đề trở lại hóa độ vô biên chúng sanh, đồng như bậc chư Phật thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng ẩn thân hay hiện thân trong Đạo tràng xin chứng minh cho lời phát nguyện mảy mọc sau nầy:

Chúng con tên . . .   chánh nguyện:

Nguyện sanh về cảnh của thánh nhơn ở, thường hay kiến lập Đạo tràng, hưng hiển cúng dường, làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sanh. Nguyện thường được Tam bảo từ bi nhiếp thọ, thường có thế lực giáo hóa dìu dắt được dễ dàng, thường tu hành tinh tấn, không say đắm cục lạc ở đời; thường biết các pháp đều không có tự tánh; đối với người oán kẻ thân đều đem điều lành bình đẳng hóa độ cho đến Bồ đề tâm không thối chuyển.

Từ nay trờ đi, một mảy thiện tâm nào cũng nhờ thiện lực nầy mà thành tựu.

Lại nguyện sanh trong loài người, sanh vào nhà từ thiện. Lại lập từ bi Đạo tràng, cúng dường Tam bảo, điều thiện nỏ nhiệm nào cũng đem bố thí hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Nguyện cùng với Hòa thượng, A xà lê chung lo tu hành, không xa lìa nhau, trường trai khổ hạnh tâm không ái nhiễm, không lập gia đình, trung tín thanh bạch nhơn nhượng hòa bình, tổn mình lợi người, không cầu danh lợi. Lại nguyện xin xả thân nầy, không mong giảu thoát, sanh trong loài quỉ thần; nguyện làm vị đại lực Hộ pháp thiện thần, tế khổ thiện thần, không cần cơm áo, tự nhiên đầy đủ. Lại nguyện xin xả thân nầy không mong giải thoát, sanh trong loài súc sanh, thường ở núi sâu hang thẳm ăn cỏ uống nước không thấy thống khổ, khi ra khỏi rừng thì được an lành, không bị bắt nhốt trói buộc.

Lại nguyện xin xả thân nầy rồi không mong giải thoát, sanh trong loài quỉ đói, nguyện thân tâm an vui, không có các điều khổ não, giáo hóa những ngã quỉ đồng khổ, sám hối tội lỗi, phát tâm Bồ đề.

Lại nguyện xin xả thân nầy không mong giải thoát, sanh vào địa ngục, tự biết đời trước của mình, giáo hóa những người đồng khổ sám hối tội lỗi phát tâm Bồ đề.

Đệ tử chúng con tên . . .  nguyện thường tự nhớ sự phát tâm Bồ đề, làm cho tâm Bồ đề tương tục không gián đoạn.

Nguyện xin hết thảy chư Phật, chư Đại Bồ tát và hết thảy Thánh Hiền cùng khắp mười phương, dủ lòng từ bi chứng giám cho chúng con.

Lại nguyện cho chư Thiên, chư Tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ, chứng giám cho chúng con chí thành đảnh lễ quy y mười phương Tam bảo.

 

TÁN THÁN PHẬT VÀ CHÚ NGUYỆN

Đại  Thánh  Thế  Tôn,

Nguy  nga  rực  rỡ,

Tam  đạt (10) chiếu  suốt.

Vua  trong  các  Thánh.

Phân  thân  tế  vật,

Hiện  tọa  Đạo  tràng.

Trời  người  chiêm  ngưỡng,

Thọ  pháp  vô  cùng (11)

Bát  âm  vang  dội (12)  

Ma  quân  kinh  hoàng

Oai  chấn  Đại  thiên, (13)

Từ  hóa  lưu  phương. (14)

Bi  lực  độ  khắp,

Thâu nhiếp mười phương

Từ  hẳn  tám  khổ (15)

Đến  Bồ  đề  hương.

Cho nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, độ người vô lượng, hết khổ sanh tử.

Nay chúng con xin nhờ công đức nhơn duyên sám hối thanh tịnhtán thán chư Phật nguyện cho tất cả chúng sanh trong tứ sanh lục đạo, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật

đều nhờ thần lực của Phật mà được tùy tâm tự tại.

 

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ SÁU

--- HẾT ---


 

1 Vô minh trú địa: Tức là căn bản vô minh, cũng tức là pháp chấp, tức là chỗ y trú của hết thảy phiền não, tức là cái nguyên nhân của biến dịch, sanh tử nên gọi là trú địa.

2 Ba độc căn: Gốc ba độc tức là tham sâm si.

3 Tứ trọng: Tội sát, đạo, dâm, vọng là bốn tội nặng nhất.

4 12 điều khổ: Tức là 4 khổ và 8 khổ cộng lại: – 1) Sanh, – 2) lão, – 3) bệnh, – 4) tử khổ, – 5) ân ái biệt ly,

   6) oán thù gặp gỡ, – 7) mong cầu không được, 8) năm ấm nung nấu.

5 Tám tà: Trái với tám chánh đạo: – 1) Tà kiến, – 2) tà tư duy, – 3) tà ngữ, – 4) tà nghiệp, – 6) tà phương tiện, – 7) tà niệm, – 8) tà định.

6 10 Tà đạo: 10 ác nghiệp: sát sanh, trộm, dâm, vọng, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, tham, sân, si.

7 – Nhiếp oai nghi giới, – 8) Nhiếp thiện pháp giới, – 9) Nhiếp chúng sanh giới gọi là tam tụ tịnh   giới, của Bồ tát cũng như: nguyện đoạn nhất thế ác, nguyện tu nhất thế thiện, nguyện độ nhất thế chúng sanh.

10 Tam đạt: tức tam minh của A la hán, – Thiên nhãn, túc mạnglậu tận minh.

11 Xan bẩm vị ương: Thọ lãnh giáo pháp của Phật không cùng tận.

12 Bát âm: Tám thứ âm thanh của Phật đã chứng được: 1) Cực hảo âm, – 2) Nhu nhuyến âm, – 3) Hòa thích âm, – 4) Tôn huệ âm, – 5) Bất nữ âm (không phải âm thanh của nữ nhơn) – 6) Bất ngộ âm, – 7) Thâm viễn âm, – 8) Bất kiệt âm.

13 Đại thiên: Tức tam thiên, đại thiên thế giới, một núi tu di, một mặt trời, một mặt trăng, bốn đại châu và núi thiết vi làm một tiểu thế giới – 1.000 tiểu thế giới gọi là một tiểu thiên thế giới – 1.000 tiểu thiên thế giới gọi là một trung thiên thế giơí – 1.000 trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giơí. Cộng chung lại nói là tam thiên đại thiên thế giới.

14 Từ hóa lưu phương: Từ tâm đức Phật giáo hóa chúng sanh để lại danh thơm bất tuyệt.

15 Từ hẳn tám khổ: Tám khổ xem ở số 4 quyển 6.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43137)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 43909)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 43022)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49001)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39832)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53775)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36822)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40801)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49727)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47306)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27689)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25842)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29875)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27156)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24722)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21295)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23205)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23864)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22781)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29558)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20630)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34157)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24664)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30015)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20208)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15136)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23861)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34058)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23985)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29170)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60127)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27594)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68708)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24508)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26345)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20799)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20043)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27541)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46400)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25553)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29241)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188856)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27399)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31110)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33129)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23990)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25594)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26662)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36623)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27315)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30355)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37279)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23882)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36953)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27591)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28326)
Công Phu Khuya
(Xem: 24149)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant