Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Trăm Bài Tụng được các Hiền Thành kết tập từ Kinh

21 Tháng Ba 201621:04(Xem: 17923)
Một Trăm Bài Tụng được các Hiền Thành kết tập từ Kinh
MỘT TRĂM BÀI TỤNG
ĐƯỢC CÁC HIỀN THÁNH KẾT TẬP TỪ KINH

 Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh,
quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686.

Tây Thiên dịch kinh Triêu Tán Đại Phu Thí Hồng Lô,
Thiếu Khanh Minh Giáo Đại Sư Thần Thiên Tức Tai phụng chiếu dịch Phạn-Hán.
Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác,
Hannover Đức quốc dịch Hán- Việt ngày  04.09.2007 tại Hannover.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 21 tháng 3 năm 2016.


      Kính lễ tất cả xuất thế gian

      Biển công đức tối tôn ba cõi,

      Lửa trí hay thiêu phiền não nhơ

      Chính Giác, con nay quy mạng lễ.

      Kính lễ hay cứu hiểm sinh tử

      Cạn khắp biển ưu não tham si,

      Phá núi trần lao tội nghiệp kia

      Con nay quy mạng báu Diệu Pháp.

      Kính lễ tất cả Phật xưng tán

      Bát thánh đạo thật hành trang nghiêm

      Thiền định vô vi dần tròn sáng

      Con nay quy mạng báu Thánh Chúng.   

      Tạng báu trong cung, các lầu gác

      Vàng, ngọc, ma-ni đủ loại quang

      Trân châu, lưu ly khắp trang nghiêm

      Trăm nghìn Trời, Người thường chiêm ngưỡng.   

      Nếu được ở an trên cõi Trời

      Là quả báo trang nghiêm chùa Phật;

      Tín tâm quy kính nơi Tam Bảo

      Cấp thí tài, vải trong tinh xá,

      Thọ khoái lạc trời người kia rồi

      Sẽ được quả Niết-bàn tịch diệt.

      Tinh xá lâu năm nhiều hư hoại

      Sửa lại, trang nghiêm cúng Phật, Tăng

      Thường được khoái lạc cõi trời, người

      Cũng được quả Niết-bàn tịch diệt.

      Nếu nơi tinh xá cúng vườn rừng,

      Tọa cụ, y phục và thuốc thang,

      Lại gặp lúc ác nạn đói khát

      Bố thí chúng sinh đồ uống ăn

      Như thế sẽ được phúc vô biên

      Và được Bảy Thánh Tài bậc trí,

      Tiêu trừ tất cả khổ ác đạo,

      Thọ đại phúc mãi vô cùng tận.

      Chỗ chư Phật Như Lai đi, ở

      Nếu người đến rồi sinh cung kính

      Phụng sự, cúng dường, kiêm nghe pháp,

      Tin sâu, tu học, y giới hành

      Sẽ được quả rộng lớn vô biên,

      Như biển lớn vô cùng sâu rộng

      Lấy vật đo lường không thể được

      Phúc đức rộng lớn cũng như vậy.

      Nếu ai kiến tạo điện thờ Phật

      Nóng, lạnh, gió, mưa chẳng vào lọt,

    Đắc được pháp tịch tĩnh tối thắng,

    Viên mãn tất cả tùy ý nguyện.

    Nếu ai tạc hoặc vẽ tượng Phật

    Được giải thoát ưu não, tật bệnh,

    Sau được sinh Thiên, thân thắng diệu,

    Trí lớn, cát tường và tôn quý.

    Nếu ai sửa chữa lại tượng Phật

    Sẽ được thân chắc chắn, không bệnh,

    Sống lâu, mạnh khoẻ, các tướng tốt,

    Sau được vui Niết-bàn tịch tịnh,

    Ưu não, tranh tụng đều diệt trừ,

    Dũng mãnh, biện tài người ca ngợi,

    Điều phục các căn mà sách tấn,

    Tất cả trang nghiêm, được chúng kính.

    Nếu ai tu bổ các tượng Phật

    Xa lìa lầm lỗi được sinh Thiên,

    Giầu có, đoan nghiêm được kính phục,

    Tất cả phúc đức đều đầy đủ.

    Tháp miếu hư hoại nếu sửa sang

    Người ấy không bệnh, thân viên mãn,

    Tất cả quả thế gian đáng yêu

    Tùy tâm đủ loại đều đầy đủ.                      

    Nếu tạo tượng Phật và tháp Phật

    Hình lượng nhỏ đến như hạt gạo,

    Không chỉ trên Trời hay cõi Người

    Quyết định làm vua thọ khoái lạc,

    Sinh cõi Sắc, Vô sắc cũng vậy,

    Phú quý vô biên chẳng thể lường,

    Sẽ lìa khổ sinh, lão, bệnh, tử

    Rốt ráo tròn quả Phật Bồ-Đề.

    Nếu trong tháp miếu để xá-lợi

    Và vẽ tượng Phậtcúng dường

    Được ánh sáng trí suốt đại địa

    Tịnh diệu Thiện Thệ phú quý Phật,

    An trụ vô biên chúng sinh giới

    Cùng vào tính vô tướng bình đẳng.

    Nếu trên ngọn núi chỗ an tịnh

    An trí tháp Phật và Luân tướng

    Hình lượng chỉ chừng đốt ngón tay

    Sẽ sinh trong tất cả Trời, Người

    Đoan nghiêm, phúc lớn, mạnh khoẻ, an,

    Sau làm Thiên tử Tam Thập Tam.

    Nếu ai dùng tay mở tháp Phật

    Sẽ được giàu sang và đầy đủ,

    Thân thể sáng sạch tâm nhu nhuyến,

    Biết nhiều, tính tịnh, không sân mạn.

    Nếu người trí hành bố thí độ

    Cúng Phật hương xoa và bạch đàn,

    Dâng đủ loại hương như Câu-ma…

    Sẽ được quả đáng yêu rộng lớn.

   Nếu ai tin Phật sinh hoan hỉ

   Đem diệu hương, hoa và âm nhạc

   Đủ loại cúng dường Phật Như Lai

   Sinh cõi trời, cảm ao vàng báu,

   Dùng hương diệu nhị hoa trong ao

   Thấm khắp toàn thân mà tắm gội,

   Nước Mạn-na Cát-nhĩ thanh tịnh

   Vào rồi trần cấu tự nhiên trừ,

   Sóng dâng dòng mạnh phun hương lạnh,

   Bờ báu sen hồng nở khắp cùng

   Chư thiên nhìn thấy đều vui thích,

   Cấp thí Phật, Tăng được báo này.

   Công đức như thế không thể lượng

   Cho nên cuối các kinh tụng tán.

 

   Y đẹp, đồ mặc tốt

   Cúng Phật và cúng Tăng,

   Sau khi sinh cõi Trời    

   Thiên y hương tối thượng,

   Đủ loại sắc xanh, vàng

   Trăm nghìn báu ma-ni

   Dùng để làm trang nghiêm

   Giàu sang thật vô lượng,

   Khoái lạc cũng vô biên

   Được quả thắng diệu này.

   Ai sinh trong thế gian

   Mà được làm quốc vương

   Đầy đủ các sắc tướng

   Y lụa thêu thượng diệu,

   Đủ loại hương thù thắng

   Tùy thân thường thọ dụng,

   Đều vì cúng y Phật

   Thành tựu báo như thế.

   Nếu ai sinh cõi trời

   Đủ loại báu trang nghiêm

   Thân mang châu, anh lạc,

   Đầu đội mũ ngọc báu,

   Khuyên tai và vòng tay,

   Khoái lạc giàu như thế,

   Cúng Phật đồ trang nghiêm

   Được quả trời thắng diệu.

   Nếu làm quốc vương lớn,

   Tướng thân rộng nghiêm sức

   Anh lạc châu ma-ni,

   Âm thanh ngọc vang cao,

   Cũng là ruộng Tam Bảo

   Bố thí đồ trang nghiêm.

   Người trí tâm thanh tịnh

   Cúng Phật các vòng hoa…

   Trên trời, trong cõi người

    Thường được các khoái lạc,

    Sau sinh trong hậu báo.

    Thành tựu hoa Thất Giác,

    Lại sinh thiên sơn địa

    Mà làm Đế-Thích chủ

    Cùng với các quyến thuộc

    Du hí nơi vườn rừng,

    Đủ loại hoa cúng dường

    Mà được quả như thế.

    Báu lưu ly, trân châu

    Các vàng, bạc xanh, vàng

    Trang nghiêm nơi tán lọng

    Tròn trịa như trăng rằm,

    Hoặc vua hoặc đại thần

    Dùng che trên đỉnh đầu,

    Như Phật nói, nhân này

    Thí lọng được báo ấy

    Giải thoát não tham ái,

    Không bệnh, luôn an lạc,

    Lại làm vua thế gian

    Cũng là quả thí lọng.

    Nếu nơi tháp miếu Phật

    Bố thí những tràng phan

    Sẽ làm Thiên Luân Vương

    Thế gian không ai hơn,

    Lìa xa tất cả tội,

    Ở trong các chúng sinh

    Mà làm bậc thượng thủ,

    Thường được người cúng dường.

    Nếu ai nơi tháp miếu

    Cúng thí các chuông linh,

    Không sinh nơi tội báo ,

    Thường được âm thanh Phạm.

    Nếu ai làm âm nhạc

    Đàn cầm, trống với sáo

    Cúng dường Phật, Thánh Hiền

    Khiến nghe tâm vui thích

    Sẽ được căn thiên nhĩ,

    Trang nghiêm thường thanh tịnh,

    Lại được tuệ kim cang

    Phá tan núi phiền não.

    Nếu phát tâm tin vui,

    Dùng diệu sắc, hương, vị

    Đủ loại uống ăn ngon

    Cúng dường lên chư Phật,

    Sẽ sinh trong cõi Trời

    Quyến thuộc cùng tòa báu,

    Dùng bảo khí ma-ni,

    Ăn cỗ trời vi diệu,

    Kiếp đao binh, đói khát

     Sẽ vĩnh không sinh vào

     Nếu ai dùng uống ăn

     Cúng dường các Thánh hiền,

     Sẽ sinh trong Trời, Người

     Thức ngon thường sung túc

     Đủ loại mà tối thượng.

     Người trí luôn ái kính

     Dùng đồ ăn mỹ diệu

     Cúng thí người xuất gia,

     Thường được thân giàu, vui,

     Biện tài và sống lâu

     Khoẻ mạnh, tướng đầy đủ

     Quả thí thực như vậy.

     Nếu dùng tâm từ mẫn

     Cúng thí nước ngon ngọt

     Cùng tô, sữa, lạc, tương

     Khiến người đang khát kia

     Uống rồi được an lạc,

     Cũng được quả như trước.

     Nếu lấy A-lê-lặc

     Các cỏ thuốc, lâm-đằng

     Cúng thí cho Thánh hiền,

     Sẽ sinh trong Trời, Người

     Không bệnh mà sống lâu,

     Thường được thân an lạc;

     Lại, người thí nước uống

     Sau được sinh Thiên cung

     Kiếp thọ, hoa cỏ tốt,

     Mong cầu tùy ý được,

     Đồ báu đựng rượu ngọt

     Cùng quyến thuộc chung uống,

     Lại nữa nơi kiếp thọ

     Sinh ra đồ trang nghiêm

     Hát ca các thiên nhạc

     Khiến tâm thiên chúng vui,

     Cam lộ lại theo thân,

     Thí uống được báo này.

     Nếu ai cúng trai thực

     Sẽ được sinh Trời, Người

     Xa lìa khỏi nghèo hèn

     Sống lâu, đủ tiền, báu.

     Nếu dùng các voi, ngựa

     Xe cưỡi và xe kéo

     Cúng thí Phật Như Lai

     Sẽ được thần thông lớn.

     Nếu thí giầy dép thảy

     Thường sinh dòng tộc cao,

     Thường có xe voi, ngựa,

     Vĩnh lìa khổ nghèo hèn.

     Nếu sư trưởng…có bệnh

     Nếu ai vui hầu hạ,

     Sẽ ở tất cả chỗ

     Mong cầu đều thành tựu.

     Nếu cúng thí tọa cụ,

     Sẽ sinh trên cõi trời,

     Chẳng thọ khổ lao nhọc,

     Thường ngồi chỗ thượng diệu.

     Sắp đặt đồ nằm cúng

     Sinh Thiên thường khoái lạc,

     Thân tướng rộng, ngay thẳng,

     Không sợ, người ngợi ca.

     Trồng trọt vườn rừng tạp

     Trang hoàng các phòng nhà

     Cho người, khiến ở, đi

     Thân tâm sinh vui thích,

     Sẽ cảm vườn Hoan Hỉ,

     Chỗ du hành Trời, Người

     Cùng với các Thiên nữ

     Vui chơi, thọ khoái lạc.

     Nếu trong lúc nóng bức

     Mà làm bóng mát thí

     Sẽ cảm cây Ưu-Đàm,

     Ni- câu và Bồ-đề,

     Sau lại được sinh Thiên

     Thường thọ vui năm dục.

     Giếng, suối và ao, hồ

     Khiến khắp đều đầy đủ

     Hậu báo được sinh Thiên,

     Hoặc sinh nơi Phạm Thế,

     Hưởng đủ loại khoái lạc,

     Lại chứng quả tịch tịnh.

     Nếu dùng bát-đa-la

     Cúng dường lên Tam Bảo

     Sẽ sinh tất cả chỗ

     Giàu sang mà khoái lạc,

     Ở trong thế gian kia

     Đức tôn cao tối thượng,

     Lại cảm các chúng sinh

     Luôn luôn thường cúng dường.

     Người trí nếu thí dao

     Sẽ được sinh cõi Trời,

     Vĩnh chẳng gặp đao binh.

     Nếu ai cúng thí kim

     Trí tuệ thường sắc bén

     Đoạn được các phiền não,

     Chứng đạo tịch tĩnh kia.

     Phật nói, nếu có ai

     Đắp và vẽ tượng Phật,

     Sinh ở trong cõi Trời,

     Thân thể sắc vàng ròng,

    Sáng trong như mặt trời,

    Mà các chúng Trời, Người

    Chư thiên chúng nam, nữ

    Luôn luôn thường quy mạng.

    Nếu người trí tuệ kia

    Khéo nói được pháp thí

    Sinh trên Trời, cõi Người,

    Đầy đủ lực trí, đức,

    Thường hưởng các khoái lạc,

    Vĩnh lìa khổ ưu bi,

    Nơi thân sau rốt kia

    Chứng được đạo tịch tĩnh.

    Nếu các hữu tình kia

    Biên chép báu diệu pháp

    Sẽ được trí Túc Mạng,

    Giầu sang, luôn an lạc,

    Mà diệt tất cả tội,

    Trải qua câu-chi kiếp

    Không rơi vào địa ngục

    Và ngạ quỷ, súc sinh.

    Nếu người có trí kia

    Quét rửa lập đàn tràng,

    Nhiễu vòng, rải hoa hương

    Hằng thời mà cúng dường,

    Sau sinh trong cõi Người

    Và sinh trên cõi Trời,

    Thường được hưởng giàu sang,

    Sau chứng được tịch diệt.

    Nếu dùng đèn sáng lâu

    Cúng dường Phật, Hiền Thánh,

    Sinh trong cõi Trời, Người

    Ba mắt thường thanh tịnh:

    Pháp nhãnThiên nhãn,

    Cùng với nhục nhãn vậy;

    Lại, người thí đèn kia

    Thường được sinh cõi Trời,

    Miệng cũng không câm, ngọng

    Tai, mắt chẳng điếc, mù;

    Lại, người thí đèn kia

    Không chỉ ba mắt tịnh

    Có thể pháp chính giác

    Tất cả đều thông đạt.

    Người trí nếu thí tài

    Cúng dường chúng có đức,

    Sa-môn, Bà-la-môn,

    Thí ít được nhiều quả,

    Rộng được tài thuận đạo,

    Dài lâu mà thọ dụng;

    Lại, người hành bố thí

    Thí súc sinh đồ ăn,

    Phúc đức thu hoạch được

    Thành gấp cả trăm lần.

    Nếu dùng tài, thức ăn

    Bố thí cho người tội,

    Công đức lần gia tăng

    Được phúc nghìn lần hơn;

    Nếu thí người trì giới

    Phúc trăm nghìn lần hơn;

    Cúng dường bậc vô tâm

    Được lợi trăm câu-chi.

    Nếu ai thí Hữu học

    Và bậc Vô Học kia,

    Phúc đức thu hoạch được

    So trước lại hơn nhiều.

    Nếu thí Phật Như Lai,

    Sẽ sinh trên cõi Trời,

    Phúc lớn mãi không hết,

    Luôn hưởng các khoái lạc,

    Cho đến hết luân hồi

    Mà chứng pháp tịch tĩnh.

    Con tập đây tất cả

    Kinh Già-đà Phật nói,

    Lược nói về phúc báo

    Khiến khắp sinh tin nhận.

    Giả sử nghìn mặt trời

    Cát tường chiếu đại địa,

    Trong đêm ánh trăng tròn

    Làm nở hoa sen xanh,

    Thủy thiên Tì-Sa-Môn,

    Đế-Thích, Na-La-Diên,

    Các Chư thiên thượng thủ

    Đều vì hành thí được.

    Mặt trời đi trong không

    Chiếu khắp cả trên dưới

    Làm sống các vật, mạng.

    Đến lúc cũng vô thường.

    Đế-Thích, Tứ Thiên Vương

    Cùng với các Thiên chúng

    Khi phúc thọ hết rồi

    Phải vào miệng chết oán,

    Lửa ưu, bi, khổ não

    Bị lửa thiêu, chẳng trụ.

    Cho nên khuyên các người

    Quán sát thân vô thường,

    Lìa xa tâm khát dục,   

    Chớ ham vui Trời, Người,

    Chốc lát chẳng dài lâu

    Đều quy về tán hoại.

    Con phát tâm tịnh tín

    Lìa bỏ vui hư huyễn,

    Thường đến ở trước Phật

    Chắp tay mà gần gũi

    Vì tự đại Bồ-đề

    Mà làm giải thoát chủ.

 


 HẾT

                            

Sửa bản in ngày 21/3/2016: Thanh Phi

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12709)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11761)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12335)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12393)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11972)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16894)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12681)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15069)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12897)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12248)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11931)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16514)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12503)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11831)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19868)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11267)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10042)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28813)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35494)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16094)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12189)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12324)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17200)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14985)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13854)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11713)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15067)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22892)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant