Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Chương X: Tương Ưng Dạ Xoa

07 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9548)
10. Chương X: Tương Ưng Dạ Xoa

Ðại Tạng Kinh Việt Nam

KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
Samyutta Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2537 - 1993


TẬP I - THIÊN CÓ KỆ

[10] Chương X
Tương Ưng Dạ Xoa

I. Indaka (S.i,206)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), núi Indakuuta, tại trú xứ của Dạ-xoa Indaka.

2) Rồi Dạ-xoa Indaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những bài kệ với Thế Tôn:

Chư Phật, Ngài dạy rằng,
Sắc không phải sinh mạng,

Vậy sao sinh mạng này,

Lại có trong thân này?

Từ đâu xương thịt đến,

Trong thân thể hiện tại?

Làm sao sinh mạng này,

Gá dính trong thai tạng?
3) (Thế Tôn):
Trước tiên, Kalala,
Rồi từ Kalala,

Abbuda có mặt.

Rồi từ Abbuda,

Pesì (thịt mềm) được sanh ra.

Pesì sinh Ghana (thịt cứng),

Rồi đến Pasàkha (chi tiết),

Tóc, lông và các móng,

Tiếp tục được sanh ra.

Những gì người mẹ ăn,

Ðồ ăn, đồ uống nào,

Con người trong bụng mẹ,

Ở đấy, lấy nuôi dưỡng.
II. Sakka (S.i,206)

1) Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakuuta (Linh Thứu).

2) Rồi Dạ-xoa tên Sakka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những bài kệ với Thế Tôn:

Thật không tốt lành gì,
Một Sa-môn như Ngài,

Ðã đoạn mọi triền phược,

Ðã sống chơn giải thoát,

Lại tiếp tục giảng dạy,

Những kẻ khác (tu học).
3) (Thế Tôn):
Này Dạ-xoa Sakka,
Dầu vì lý do gì,

Loài Người sống chung nhau,

Không một lý do nào,

Xứng đáng bậc trí tuệ,

Với lòng từ lân mẫn,

Nếu với tâm tín thành,

Giảng dạy những người khác,

Do vậy không hệ lụy,

lòng từ lân mẫn.
III. Suciloma (S.i,207)

1) Một thời Thế Tôn ở Gayà, trên hòn đá Tankita tại trú xứ của Dạ-xoa Suciloma.

2) Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara và Dạ-xoa Suciloma đi ngang qua, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

3) Rồi Dạ-xoa Khara nói với Dạ-xoa Suciloma:

-- Ðây là một Sa-môn.

4) -- Ðây không phải Sa-môn. Ðây là Sa-môn giả. Hay ít nhất cho đến khi ta biết được Sa-môn hay Sa-môn giả.

5) Rồi Dạ-xoa Suciloma đi đến Thế Tôn, sau khi đến liền nghiêng thân về phía Thế Tôn.

6) Thế Tôn liền tránh né thân của mình.

7) Dạ-xoa Suciloma nói với Thế Tôn: -- Có phải Sa-môn sợ ta?

8) -- Này Hiền giả, Ta không sợ Ông. Nhưng xúc chạm với Ông là điều đáng ghét (pàpaka).

9) -- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng.

10) -- Này Hiền giả, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiênloài Người, Ta không thấy một ai có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta, hay nắm lấy chân Ta, quăng Ta qua bờ bên kia. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn.

11) (Dạ-xoa):

Tham dụcsân hận,
Do nhân gì sanh khởi?

Bất mãnthỏa mãn,

Sợ hãi từ đâu sanh?

Từ đâu được khởi lên,

Các tư tưởng, tư duy,

Như quạ được bầy trẻ,

Thả bay rồi kéo lại?
12) (Thế Tôn):
Tham dụcsân hận,
Do nhân này sanh khởi,

Bất mãnthỏa mãn,

Sợ hãi từ đây sanh.

Từ đây được khởi lên,

Các tư tưởng, tư duy,

Như quạ được bầy trẻ,

Thả bay rồi kéo lại.

Chính do tham ái sanh,

Chính do tự ngã sanh.

Như cây nigroda (cây bàng),

Do từ thân cây sanh.

Phàm phu bám ác dục,

Như cây leo khắp rừng.

Những ai hiểu biết được,

Do nhân ấy sanh khởi,

Họ diệt trừ nhân ấy.

Hãy nghe, này Dạ-xoa,

Họ vượt bộc lưu này,

Bộc lưu thật khó vượt,

Từ trước chưa vượt qua,

Không còn phải tái sanh.
IV. Manibhadda (S.i,208)

1) Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Magadha, tại điện thờ Manimàlaka, tại một trú xứ của Dạ-xoa Manibhadda.

2) Rồi Dạ-xoa Manibhadda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Lành thay, thường chánh niệm,
Nhờ niệm, lạc tăng trưởng.

Có niệm, mai đẹp hơn,

Hận thù được giải thoát.
3) (Thế Tôn):
Lành thay, thường chánh niệm,
Nhờ niệm, lạc tăng trưởng,

Có niệm, mai đẹp hơn,

Hận thù chưa giải thoát.

Với ai trọn ngày đêm,

Tâm ý lạc, bất hại,

Từ tâm mọi hữu tình,

Vị ấy không thù hận.
V. Sanu (S.i,209)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.

2) Lúc bấy giờ, Sànu, con một nữ cư sĩ bị Dạ-xoa ám ảnh.

3) Nữ cư sĩ ấy than khóc, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:

Con ta là La-hán,
Ðối với ta là vậy,

Và chính ta được nghe,

Vị La-hán nói vậy.

Nay ta thấy Sànu,

Bị Dạ-xoa ám ảnh.

Ngày mười bốn, mười lăm,

Và ngày tám nửa tháng,

Cả ngày lễ đặc biệt,

Khéo tu tám trai giới,

Tuân trì lễ Bố-tát.

Và chính ta được nghe,

Vị La-hán nói vậy,

Nay ta thấy Sànu,

Bị Dạ-xoa ám ảnh.

Ngày mười bốn, mười lăm,

Và ngày tám nửa tháng,

Cả ngày lễ đặc biệt,

Khéo tu tám trai giới,

Tuân trì lễ Bố-tát.

Những ai sống Phạm hạnh,

Dạ-xoa không ám ảnh,

Và chính ta được nghe,

Vị La-hán nói vậy.

Người nói với Sànu,

Có trí và sáng suốt,

Ðây là lời Dạ-xoa,

Chớ có làm điều ác,

Công khai hay bí mật.

Nếu người làm điều ác,

Sẽ làm hay đang làm,

Ông không thoát khổ đau,

Dầu có đứng lên chạy,

Chạy một mạch, chạy dài.
4) (Sànu được khỏi ám ảnh):
Này mẹ, người ta khóc,
Là khóc cho người chết,

Hay khóc cho người sống,

Nhưng không được thấy mặt?

Này mẹ, chúng thấy con,

Hiện có mặt đang sống.

Vậy sao mẹ khóc con,

Này người mẹ (thân yêu)?
5) (Bà mẹ):
Người ta khóc cho con,
Là khóc cho con chết,

Hay khóc cho con sống,

Nhưng không được thấy mặt.

Ai đã bỏ dục vọng,

Lại trở lui đời này,

Này con, người ta khóc,

Là khóc cho người ấy,

Vì người ấy được xem,

Còn sống cũng như chết.

Nay con được kéo ra,

Khỏi than hừng đỏ rực,

Con còn muốn rơi vào,

Ðống than hồng ấy chăng?

Nay con được thoát ra,

Khỏi địa ngục (đau khổ),

Con còn muốn rơi vào,

Cõi địa ngục ấy chăng?

Hãy dong ruỗi đời con,

Ta chúc con hạnh phúc,

Hãy sống như thế nào,

Không làm ai bực phiền.

Ðồ vật thoát lửa cháy,

Con muốn đốt lại chăng?
VI. Piyankara (S.i,209)

1) Một thời Tôn giả Anuruddha trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.

2) Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha thức dậy khi đêm vừa mới sáng, đang tụng đọc pháp cú.

3) Một nữ Dạ-xoa, mẹ của Piyankara dỗ cho con nín như sau:

Này Piyankara,
Chớ có sanh tiếng động,

Vị Tỷ-kheo đang tụng,

Những lời về pháp cú.

Nếu chúng ta biết được,

Học được pháp cú này,

Rồi như pháp hành trì,

Chúng ta được lợi ích.

Không sát hại sanh vật,

Không cố ý nói láo,

Tự học tập giới luật,

Chúng ta thoát ngạ quỷ.
VII. Punabbasu (S.i,209)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.

2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo về vấn đề liên hệ đến Niết-bàn, tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung mọi tâm tư, lóng tai nghe pháp.

3) Rồi một nữ Dạ-xoa, mẹ Punabbasu dỗ con nín như sau:

Hãy gìn giữ im lặng,
Này Uttarika!

Hãy gìn giữ im lặng,

Này Punabbasu!

Ðể mẹ được nghe pháp.

Ðạo Sư, tối thượng Phật,

Thế Tôn giảng Niết-bàn,

Thoát ly mọi triền phược,

Mẹ đối với pháp ấy,

Thật cực kỳ ái lạc.

Ðời ái lạc con mình,

Ðời ái lạc chồng mình,

Nhưng đối với đạo pháp,

Mẹ ái lạc nhiều hơn.

Con hay chồng dầu thân,

Không cứu ta thoát khổ,

Không như nghe diệu pháp,

Chúng sanh được thoát khổ.

Trong đau khổ đời sau,

Dính liền già và chết,

Chánh pháp Ngài giác ngộ,

Giải thoát khỏi già chết.

Mẹ muốn nghe pháp ấy

Hãy nín đi con ơi!

Này Punabbasu.
4) (Punabbasu):
Thưa mẹ, con không nói,
Uttarà nín lặng.

Mẹ hãy lắng nghe pháp,

Nghe pháp được an lạc.

Vì không biết diệu pháp,

Chúng ta trôi sanh tử.

Giữa Nhân, Thiên mù quáng,

Ngài đem cho ánh sáng,

Giác ngộ, thân tối hậu,

Bậc Pháp nhãn thuyết pháp.
5) (Bà mẹ):
Hữu trí thay, con ta!
Con ta sanh ẵm ngực.

Nay con ta ái lạc,

Tịnh pháp Vô thượng Phật.

Này Punabbasu!

Hãy sống chơn an lạc,

Nay ta được sống lại,

Thấy được chơn Thánh đế,

Này con Uttara!

Hãy nghe theo lời ta.
VIII. Sudatta. (S.i,210)

1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại rừng Sìta.

2) Lúc bấy giờ cư sĩ Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc) đã đến Ràjagaha để làm một vài công việc.

3) Cư sĩ Anàthapindika được nghe đức Phật đã ra đời và muốn đến yết kiến Thế Tôn.

4) Rồi cư sĩ Anàthapindika suy nghĩ: "Nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn. Ngày mai mới phải thời ta đến yết kiến Thế Tôn". Như vậy với ý nghĩ đi yết kiến đức Phật, ông Anàthapindika nằm ngủ. Trong đêm, ông ấy thức dậy ba lần, tưởng rằng trời đã sáng.

5) Rồi cư sĩ Anàthapindika đi đến cửa Sìvatthika (nghĩa địa), và có những phi nhân mở cửa.

6) Và khi ông ra khỏi thành phố, ánh sáng biến mất và bóng tối hiện ra. Ông sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược và muốn đi trở về.

7) Rồi Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình, lên tiếng như sau:

Trăm voi và trăm ngựa,
Trăm xe do ngựa kéo,

Cả trăm ngàn thiếu nữ,

Ðược trang sức bông tai,

Không bằng phần mười sáu,

Một bước đi tới này.

Cư sĩ, hãy tiến tới!

Cư sĩ, hãy tiến tới!

Tiến tới, tốt đẹp hơn,

Chớ có lui, thối bước!
8) Rồi với Anàthapindika, tối tăm biến mất, ánh sáng hiện ra. Và sợ hãi, hốt hoảng, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được dịu hẳn xuống.

9) Lần thứ hai... (như trên)...

10) Lần thứ ba, với Anàthapindika, ánh sáng biến mất, bóng tối hiện ra. Và sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược khởi lên. Và Anàthapindika muốn trở lui. Lần thứ ba, Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình lên tiếng như sau :

Trăm voi và trăm ngựa,
Trăm xe do ngựa kéo,

Cả trăm ngàn thiếu nữ,

Ðược trang sức bông tai,

Không bằng phần mười sáu,

Một bước đi tới này.

Cư sĩ, hãy tiến tới!

Cư sĩ, hãy tiến tới!

Tiến tới, tốt đẹp hơn,

Chớ có lui, thối bước!
11) Rồi với Anàthapindika, bóng tối biến mất, ánh sáng hiện rasợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được dịu bớt.

12) Rồi Anàthapindika đi đến rừng Sìta, đi đến Thế Tôn.

13) Lúc bấy giờ Thế Tôn thức dậy vào lúc đêm vừa mãn và đang đi kinh hành ngoài trời.

14) Thế Tôn thấy Anàthapindika từ xa đi đến, khi thấy vậy, từ chỗ kinh hành đi xuống, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với cư sĩ Anàthapindika:

-- Hãy đến đây, Sudatta!

15) Rồi cư sĩ Anàthapindika nghĩ: "Thế Tôn kêu tên ta", rồi cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ngủ có an lạc chăng?

(Thế Tôn):

Bà-la-môn tịch tịnh,
Luôn luôn sống an lạc,

Không đèo bồng dục vọng,

Thanh lương, không sanh y,

Mọi ái trước đoạn diệt,

Tâm khổ não điều phục,

Tịch tịnh, sống an lạc,

Tâm tư đạt hòa bình.
IX. Sukkà (S.i,212)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo-ni Sukkà, có đại chúng đoanh vây, đang thuyết pháp.

3) Rồi một Dạ-xoa có lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Sukkà, đi từ đường xe này đến đường xe khác, đi từ ngã tư này đến ngã tư khác ở Ràjagaha, và ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này:

Này người Vương Xá thành,
Các Người đã làm gì,

Mà nay lại nằm dài,

Như say vì rượu ngọt.

Không hầu hạ Sukkà,

Ðang thuyết pháp bất tử?

Pháp ấy không trở lui,

Cam lồ không lưng vơi.

Ta nghĩ người trí tuệ

Uống nước (cam lồ) ấy,

Chẳng khác một đám mưa,

Ðối với kẻ lữ hành.
X. Sukkà (S.i,212)

1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Lúc bấy giờ, một người cư sĩ đang cúng dường đồ ăn cho Tỷ-kheo-ni Sukkà.

3) Rồi một Dạ-xoa, khởi lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Sukkà, liền đi từ đường xe này đến đường xe khác, đi từ ngã ba này ba khác ở Ràjagaha, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:

Cư sĩ có trí này,
Chắc hưởng nhiều công đức,

Ðã cúng dường món ăn,

Dâng cúng lên Sukkà,

Một vị đã giải thoát,

Tất cả mọi triền phược.
XI. Cirà hay Virà (S.i,215)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Ràagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Lúc bấy giờ, một cư sĩ dâng y cúng dường Tỷ-kheo-ni Cirà.

3) Rồi một Dạ-xoa, khởi lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Cirà, liền đi từ đường xe này đến đường xe khác, từ ngã ba này đến ngã ba khác tại thành Vương Xá, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:

Cư sĩ có trí này,
Chắc hưởng nhiều công đức,

Ðã cúng dường tấm y,

Dâng cúng lên Cirà,

Một vị đã giải thoát,

Tất cả mọi khổ ách.
XII. Alava (S.i,218)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở €lavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavakka.

2) Rồi Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

-- Này Sa-môn, hãy đi ra!

-- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn nói và đi ra.

-- Này Sa-môn, hãy đi vào.

-- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn nói và đi vào.

3) Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:

-- Này Sa-môn, hãy đi ra.

-- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn nói và đi ra.

-- Này Sa-môn, hãy đi vào.

-- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn nói và đi vào.

4) Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn:

-- Này Sa-môn, hãy đi ra.

-- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn nói và đi ra.

-- Này Sa-môn, hãy đi vào.

-- Lành thay, Hiền giả.

Thế Tôn nói và đi vào.

5) Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn:

-- Này Sa-môn, hãy đi ra.

6) -- Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hãy làm gì Ông nghĩ là phải làm.

7) -- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu hỏi. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng.

8) -- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiênloài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta hay nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn.

9) (Dạ-xoa):

Cái gì đối người đời,
tài sản tối thượng?

Cái gì khéo hành trì,

Ðem lại chơn an lạc?

Cái gì giữa các vị,

Là vị ngọt tối thượng?

Phải sống như thế nào,

Ðược gọi sống tối thượng?
10) (Thế Tôn):
Lòng tin đối người đời,
tài sản tối thượng.

Chánh pháp khéo hành trì,

Ðem lại chơn an lạc.

Chân lý giữa các vị,

Là vị ngọt tối thượng.

Phải sống với trí tuệ,

Ðược gọi sống tối thượng.
11) (Dạ-xoa):
Làm sao vượt bộc lưu?
Làm sao vượt biển lớn?

Làm sao siêu khổ não?

Làm sao được thanh tịnh?
12) (Thế Tôn):
Với tín, vượt bộc lưu.
Không phóng dật, vượt biển.

Tinh tấn, siêu khổ não.

Với Trí, được thanh tịnh.
13) (Dạ-xoa):
Làm sao được trí tuệ?
Làm sao được tài sản?

Làm sao đạt danh xưng?

Làm sao kết bạn hữu?

Ðời này qua đời khác,

Làm sao không sầu khổ?
14) (Thế Tôn):
Ai tin tưởng Chánh pháp
Của bậc A-la-hán,

Pháp ấy khiến đạt được,

Niết-bàn (chơn an lạc),

Khéo học, không phóng dật,

Minh nhãn khéo phân biệt,

Nhờ hành trì như vậy,

Vị ấy được trí tuệ.

Làm gì khéo thích hợp,

Gánh vác các trách nhiệm,

Phấn chấn, thích hoạt động,

Như vậy được tài sản,

Chơn thật đạt danh xưng,

Bố thí kết bạn hữu,

Ðời này qua đời khác,

Như vậy không sầu khổ.

Tín nam gia chủ nào,

Tìm cầu bốn pháp này,

Chơn thực và chế ngự,

Kiên trìxả thí,

Vị ấy sau khi chết,

Không còn phải sầu khổ.

Ðời này qua đời khác,

Sau chết, không sầu khổ.

Ta muốn Ông đến hỏi,

Sa-môn, Bà-la-môn,

Có những pháp nào khác,

Tốt hơn bốn pháp này:

Chơn thực và chế ngự,

Xả thíkham nhẫn.
15) (Dạ-xoa):
Làm sao nay ta hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,

Khi nay ta được biết,

Nguyên nhân của đời sau.

Phật đến Alavi,

Thật lợi ích cho ta.

Nay ta được biết rõ,

Cho gì được quả lớn.

Nên ta sẽ bộ hành,

Làng này qua làng khác,

Thành này qua thành khác,

Ðảnh lễ Phật Chánh Giác,

Cùng đảnh lễ Chánh pháp,

Các vị chứng Pháp tánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13277)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17967)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12495)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 54277)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14472)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 13861)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58108)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 13355)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11958)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 14712)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12188)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 13704)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13374)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 12226)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 11911)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42131)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 38874)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14767)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12747)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16064)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14478)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 13745)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 16433)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13192)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12952)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14226)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14175)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16528)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12419)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14419)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11365)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11067)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13217)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13930)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13213)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13040)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13545)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 13690)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33721)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11379)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12980)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13103)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11679)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17942)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11485)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11901)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11559)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19028)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12595)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11390)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13186)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15833)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11876)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11741)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12840)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12685)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14010)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13027)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12990)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13333)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant