Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ 8: Pháp Đốn Và Tiệm

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12360)
Phẩm Thứ 8: Pháp Đốn Và Tiệm

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải, Nguyễn Minh Hiển hiệu đính Hán văn

PHẨM THỨ VIII: PHÁP ĐỐN VÀ TIỆM

Bấy giờ, Tổ Sư ở chùa Bảo Lâm nơi Tào Khê, Thần Tú Đại sư ở chùa Ngọc Tuyền nơi Kinh Nam. Lúc ấy, hai tông đều thạnh hóa. Người đời gọi là “Nam Năng, Bắc Tú”, cho nên có sự phân ra hai pháp Đốn và Tiệm của hai tông Nam Bắc, làm cho người học chẳng biết theo về đâu. Sư vì mọi người mà nói rằng:

“Pháp vốn chỉ một tông, người có Nam Bắc. Pháp tức là một loại, chỗ thấy biết có chậm mau. Sao gọi là Đốn, Tiệm? Pháp khôngĐốn Tiệm, chỉ vì người ta có lanh lợi, chậm lụt khác nhau, cho nên gọi là Đốn Tiệm đó thôi.”

Nhưng môn đồ của sư Thần Tú thường chê Tổ Sư phía Nam rằng: Chẳng biết một chữ, có chi là giỏi?

Thần Tú nói rằng: “Vị ấy được trí vô sư, Vô sư trí: trí tuệ tự thấy biết không cần thầy dạy. ngộ sâu phép Thượng thừa, ta chẳng bằng được. Vả lại, Thầy ta là Ngũ Tổ đích thân truyền pháp và y, nào phải vô cớ sao? Ta vẫn ân hận rằng chẳng thể vượt đường xa đến đó thân cận được với vị ấy, ở đây luống thọ ơn nước. Nói việc thái hậu Võ Tắc Thiên tôn sùng, tôn hiệuQuốc Sư. Các ngươi đừng trì trệ mãi ở đây, nên tới Tào Khê tham yết mà học hỏi.”

Ngày kia, sư Thần Tú bảo môn đồChí Thành rằng: “Nhà ngươi thông minh tài trí, nên vì ta đến Tào Khê nghe Pháp. Nếu nghe được điều chi, hết lòng nhớ lấy, trở về nói cho ta nghe.”

Chí Thành vâng lời đến Tào Khê, theo chúng tham học, nhưng chẳng nói là từ đâu đến. Khi ấy, Tổ Sư bảo chúng rằng: “Nay có kẻ trộm pháp lẩn trong Hội này.”

Chí Thành liền bước ra lễ bái, nói rõ chuyện mình.

Sư nói: “Ngươi từ chùa Ngọc Tuyền đến đây để lén lút dò xét, phải không?” Đáp rằng: “Không phải.” Sư nói: “Sao không phải được?” Thưa rằng: “Chưa nói ra là phải, đã nói ra rồi nên không phải.”

Sư hỏi: “Thầy ngươi dạy chúng thế nào?”

Đáp: “Thầy tôi thường dạy chúng rằng: Trụ tâm quán sự yên tĩnh, ngồi hoài chẳng nằm.”

Sư nói: “Trụ tâm quán sự yên tĩnh, đó là bệnh chứ chẳng phải thiền. Ngồi mãi là giam mình, theo lý có ích gì? Hãy nghe bài kệ này:

• Lúc sống ngồi chẳng nằm;

• Chết đi nằm chẳng ngồi.

• Một bộ xương hôi thối,

• Sao lấy đó lập công?”

Chí Thành lại làm lễ, thưa rằng: “Đệ tử này ở nơi Đại sư Thần Tú, học đạo chín năm, chẳng được tỉnh ngộ. Nay vừa nghe Hòa thượng thuyết qua liền khế hợp bản tâm. Sanh tử là việc lớn, xin Hòa thượng đại từ chỉ dạy.”

Sư nói: “Ta nghe thầy ngươi dạy pháp Giới Định Tuệ, chưa rõ thầy ngươi giảng thuyết hạnh, tướng Giới Định Tuệ thế nào? Ngươi thử nói ta nghe xem.”

Chí Thành nói: “Đại sư Thần Tú nói: ‘Mọi điều dữ đừng khởi lên, gọi là Giới. Mọi điều lành vâng làm theo, gọi là Tuệ. Tịnh lấy ý của mình, gọi là Định.’ Chưa rõ ở đây Hòa thượng dùng pháp gì dạy người?”

Sư nói: “Nếu ta nói có pháp dạy người, hóa ra nói dối ngươi. Chỉ tùy phương tiện mà mở trói, tạm gọi là Tam-muội. Như nghĩa Giới Định Tuệ của thầy ngươi thuyết, thật chẳng thể nghĩ bàn được. Chỗ kiến giải của ta về Giới Định Tuệ lại khác.”

Chí Thành hỏi: “Giới Định Tuệ lẽ ra chỉ một, sao lại có khác?”

Sư nói: “Giới Định Tuệ của thầy ngươi dạy người Đại thừa. Giới Định Tuệ của ta dạy người Tối thượng thừa. Chỗ ngộ, giải chẳng đồng nhau; chỗ thấy biết có mau, có chậm. Ngươi hãy nghe ta thuyết, xem có giống thầy ngươi chăng? Chỗ thuyết pháp của ta chẳng rời khỏi tự tánh. Nếu rời khỏi thể tự tánhthuyết pháp, gọi là tướng thuyết, tự tánh thường mê. Nên biết rằng hết thảy muôn pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là pháp Giới Định Tuệ chân thật. Hãy nghe bài kệ này:



Tâm không sai quấy, tự tánh Giới,

Tâm không ngu si, tự tánh Tuệ,

Tâm không tán loạn, tự tánh Định.

• Chẳng thêm, chẳng bớt, như kim cang,

• Thân dù qua lại, thường trong định.”

Thành nghe kệ, ăn năn cảm tạ, liền trình kệ rằng:

Năm uẩn huyễn hình,

• Huyễn sao cứu cánh?

• Quày đuổi chân như,

Pháp thành chẳng tịnh.

Sư nhận cho là được. Lại nói với Chí Thành: “Giới Định Tuệ của thầy ngươi khuyên người trí nhỏ căn thấp, Giới Định Tuệ của ta khuyên người trí tuệ đại căn. Nếu ngộ tự tánh, lại chẳng lập Bồ-đề Niết-bàn, cũng chẳng lập Giải thoát tri kiến. Pháp thân có năm phần: giới, định, tuệ là theo nhân mà có tên, giải thoát, giải thoát tri kiến là theo quả mà có tên.

“Không một pháp có thể đắc, mới kiến lập được muôn pháp. Nếu hiểu rõ ý ấy, cũng gọi là Phật thân, cũng gọi là Bồ-đề Niết-bàn, cũng gọi là Giải thoát tri kiến. Người thấy tánh, lập cũng được, chẳng lập cũng được, qua lại tự do, không trì trệ, ngăn ngại. Ứng dụng tùy việc làm, theo lời mà đáp, thấy khắp hóa thân, chẳng lìa tự tánh, tức được thần thông tự tại du hý Tam-muội, đó gọi là thấy tánh.”

Chí Thành lại hỏi Sư rằng: “Thế nào là nghĩa chẳng lập?”

Sư đáp: “Tự tánh không sai quấy, ngu si, tán loạn. Tánh Bát-nhã thường luôn quán chiếu, lìa khỏi pháp tướng, tự do tự tại, dọc ngang đều được, có chi lập được? Tánh mình tự ngộ, tức thời giác ngộ, tức thời tu trì, chẳng có lần lượt thứ lớp, vậy nên chẳng lập pháp nào hết thảy. Các pháp đều tịch diệt, có thứ lớp gì đâu?”

Chí Thành lễ bái, nguyện theo làm kẻ hầu hạ sớm chiều.



Có vị tăng hiệu Chí Triệt, người Giang Tây, vốn trước là họ Trương, tên Hành Xương. Thuở nhỏ tánh tình hung hăng.

Từ khi Nam tông, Bắc tông phân nhau mà hóa độ, hai vị tông chủ tuy chẳng đố kỵ nhau, mà môn đồ thường khởi lòng yêu, ghét.

Thuở ấy, môn nhân Bắc tông tự lập Đại sư Thần Tú làm Tổ thứ sáu, lại sợ việc Tổ Sư được truyền y thiên hạ đều nghe, bèn cậy Hành Xương đến hành thích. Tâm Sư thông tuệ, biết trước việc ấy, liền sắp đặt mười lượng vàng nơi chỗ ngồi. Đêm tối, Hành Xương vào thất Tổ Sư, muốn ra tay làm hại. Sư vươn cổ đưa ra cho chém, mà Hành Xương vung đao ba lần đều không tổn hại đến ngài.

Sư nói: “Gươm chánh chẳng tà, gươm tà chẳng chánh. Chỉ nợ ngươi vàng, chẳng nợ ngươi mạng.”

Hành Xương hoảng vía, lăn ra bất tỉnh. Hồi lâu hoàn hồn, cầu xin hối lỗi, nguyện xuất gia tức thời. Sư đưa vàng cho mà bảo rằng: “Ngươi nên đi nhanh, kẻo đồ chúng hay được sẽ hại ngươi. Ngày sau cải dạng đến đây, ta sẽ thâu nhận.”

Hành Xương vâng lời trốn đi. Về sau xuất gia, thọ đủ giới luật tinh tấn. Ngày kia, nhớ lời Sư dặn mới từ xa đến lễ. Sư nói: “Ta nghĩ đến ngươi đã lâu, sao đến trễ vậy?”

Thưa rằng: “Ngày trước đội ơn Hòa thượng xá tội, nay tuy xuất gia khổ hạnh, rốt lại cũng khó đáp đền. Chỉ biết cố gắng truyền pháp độ sanh thôi. Đệ tử thường xem Kinh Niết-bàn, chưa hiểu nghĩa thường, vô thường. Xin Hòa thượng từ bi lược thuyết cho.”

Sư đáp: “Vô thường tức là Phật tánh, hữu thường tức là tâm phân biệt hết thảy các pháp thiện ác.”

Thưa rằng: “Hòa thượng thuyết như vậy trái hẳn với kinh văn.”

Sư nói: “Ta truyền tâm ấn Phật, sao dám trái với kinh Phật?”

Thưa rằng: “Trong kinh nói Phật tánh là thường. Hòa thượng lại nói vô thường. Các pháp thiện ác, cho đến cả tâm Bồ-đề đều là vô thường, Hòa thượng lại nói là thường. Đó là trái nhau, khiến đệ tử càng thêm nghi hoặc.”

Sư nói: “Kinh Niết-bàn, trước đây ta có nghe ni sư Vô Tận Tạng tụng qua một lượt, liền vì bà ấy mà giảng thuyết, không một chữ, một nghĩa nào chẳng hợp kinh. Đến nay vì ngươi mà thuyết, vẫn không sai khác.”

Thưa rằng: “Kẻ học đạo này kiến thức nông cạn, tối tăm. Nguyện Hòa thượng chỉ dạy cho cặn kẽ.”

Sư nói: “Ngươi nên biết, Phật tánh nếu thường, thì thuyết làm gì các pháp thiện ác, cho tới cùng kiếp cũng không có lấy một người phát tâm Bồ-đề. Cho nên ta nói vô thường chính là cái đạo chân thường của Phật thuyết vậy. Lại nữa, hết thảy các pháp nếu như vô thường, tức nhiên mọi vật đều riêng có tự tánh, dung nạp và thọ lấy sự sống chết, vậy là tánh chân thường còn có chỗ chưa bao quát. Cho nên ta nói thường, là cái nghĩa chân vô thường của Phật thuyết. Phật vì kẻ phàm phu ngoại đạo chấp lẽ tà thường, vì hàng Nhị thừa chấp thường là vô thường, hợp thành tám thứ điên đảo, cho nên trong giáo pháp Niết-bàn rốt ráo mới phá bỏ những chỗ kiến giải thiên lệch đó mà nói rõ nghĩa chân thường, chân lạc, chân ngã, chân tịnh. Nay ngươi lại chấp theo lời, hiểu trái với nghĩa, lấy chỗ vô thườngđoạn diệt và chỗ thường chắc chắn dứt mất mà giải lầm lời viên diệu sau cùng của Phật, dù xem kinh đến ngàn lượt phỏng có ích gì?” Tám điên đảo: a) Bốn điên đảo của phàm phu, ngoại đạo: 1. Thường : Các pháp trong thế gian đều vô thường, mà cho là thường. 2. Lạc: Các pháp trong thế gian đều khổ, mà cho là vui. 3. Ngã: Các pháp trong thế gian đều vô ngã mà cho là hữu ngã. 4. Tịnh: Các pháp trong thế gian đều bất tịnh mà cho là tịnh. b) Bốn điên đảo của hàng nhị thừa: 1. Vô thường: Đối với Niết-bàn là thường, kể là vô thường. 2 Vô lạc: Đối với Niết-bàn là vui, kể là Vô lạc. 3. Vô ngã: Đối với Niết-bàn là chân ngã, kể cho là vô ngã. 4. Vô tịnh: Đối với Niết-bàn là thanh tịnh, kể cho là vô tịnh.

Hành Xương bỗng nhiên đại ngộ, thuyết kệ rằng:



Người chấp tâm vô thường,

Phật thuyết tánh hữu thường.

Không hiểu rõ phương tiện.

Như ao xuân nhặt sỏi.



Ta nay chẳng tốn công,

Phật tánh hiện tiền.

Chẳng phải Thầy truyền trao,

Cũng chẳng có chỗ đắc.

Sư nói: “Nay ngươi thật đã thật thấu triệt, nên lấy tên là Chí Triệt.” Chí Triệt lễ tạ mà lui ra.



Có một đồng tử mười ba tuổi, tên Thần Hội, con nhà họ Cao tại huyện Tương Dương, từ chùa Ngọc Tuyền Chùa Ngọc Tuyền do đại sư Thần Tú trụ trì. đến tham lễ Sư.

Sư hỏi: “Bậc tri thức từ xa khó nhọc đến, vậy đã được chỗ cội gốc ban sơ hay chưa? Nếu được, hẳn phải biết chủ. Thử nói ra xem.”

Thần Hội nói: “Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.”

Sư nói: “Chú sa-di nhỏ này tranh giữ lấy câu thứ yếu.”

Thần Hội bèn hỏi: “Hòa thượng ngồi thiền, thấy hay chẳng thấy?”

Sư lấy gậy đánh ba cái, hỏi rằng: “Ta đánh nhà ngươi, đau hay không đau?”

Thưa rằng: “Cũng đau, cũng không đau.”

Sư nói: “Ta cũng thấy, cũng chẳng thấy.”

Thần Hội hỏi: “Thế nào là cũng thấy, cũng chẳng thấy?”

Sư nói: “Chỗ ta thấy, thường thấy điều lầm lỗi trong tâm mình, chẳng thấy điều phải quấy, tốt xấu của người khác. Bởi vậy cho nên cũng thấy, cũng chẳng thấy. Còn ngươi nói ‘Cũng đau, cũng chẳng đau.’ là thế nào? Ngươi nếu chẳng đau, tức đồng với cây đá. Nếu đau, tức đồng với kẻ phàm phu, liền khởi oán giận. Ngươi từ trước thấy và chẳng thấy là hai bên; đau và chẳng đau là sanh diệt. Tự tánh của ngươi, ngươi còn chẳng thấy, sao dám đùa người?”

Thần Hội lễ bái, ăn năn tạ lỗi. Sư lại nói: “Ngươi nếu tâm mê chẳng thấy, nên hỏi bậc thiện tri thức chỉ đường cho. Nếu tâm ngộ, tức tự thấy tánh, liền y theo pháp mà tu hành. Nay ngươi mê chẳng thấy tự tâm, lại đến đây hỏi ta thấy với chẳng thấy. Ta thấy, ta tự biết, lẽ đâu mê thay cho ngươi? Ngươi nếu tự thấy, cũng chẳng mê thay cho ta. Sao chẳng tự biết tự thấy, lại hỏi ta thấy với chẳng thấy?”

Thần Hội lại lạy hơn trăm lạy, cầu tạ lỗi lầm. Từ đó siêng năng hầu hạ bên Sư chẳng rời.


Một ngày kia. Sư bảo chúng rằng: “Ta có một vật không đầu không đuôi, không danh không tự, không lưng Lưng: bề trái không mặt. Mặt: bề mặt Các người có biết là gì chăng?”

Thần Hội bước ra nói: “Đó là nguồn gốc của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội.”

Sư nói: “Vừa nói với ngươi không danh không tự, ngươi lại đặt ngay ra là nguồn gốc, Phật tánh. Ngươi về sau có ở chốn am tranh, Nguyên văn: “bả mão cái đầu”, lấy cỏ tranh che đầu. Ở đây ý nói người đi tu, ở nơi am cỏ thanh đạm. cũng chỉ thành tông đồ của bọn tri giải.”

Sau khi Tổ Sư diệt độ, Thần Hội vào Kinh Lạc, mở rộng Đốn giáo Tào Khê, soạn bộ sách Hiển Tônglưu hành rộng rãi trong đời, lấy hiệu là Hà Trạch Thiền sư.



Sư thấy các tông phái vấn nạn, thảy đều khởi tâm ác, Ngài thương tình mới nhóm đồ chúng lại mà dạy rằng: “Người học đạo, hết thảy tâm thiện ác đều nên dứt sạch. Không tên nào có thể gọi, tên ở tự tánh. Tánh không phân biệt, gọi là thật tánh. Từ trên thật tánh, kiến lập ra hết thảy giáo môn: vừa nghe qua liền tu hành tự thấy.”

Mọi người nghe giảng, thảy đều lễ bái, nguyện thờ làm thầy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26414)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 27728)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 30033)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 23044)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 30685)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31316)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37196)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27166)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 30117)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23144)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22348)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 30947)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41551)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 24983)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23705)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25346)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 58774)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 20907)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28947)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 28635)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 23966)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 24860)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 61864)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 22130)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
(Xem: 23988)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41240)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 33228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 25799)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 31351)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38608)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21463)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44296)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 42245)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45800)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32141)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23985)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 33944)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27702)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19534)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19849)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19280)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 27562)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27951)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26746)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 22700)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 30369)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 44260)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35556)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 20717)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24793)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37963)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 21862)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 32632)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26264)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28972)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant