Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày thứ năm

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12376)
Ngày thứ năm

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ năm:

Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức của tông Thiên Thai, kiêm giảng về việc ăn chay, phóng sanh

Pháp môn Tịnh Ðộ lợi khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn duy nhất vô thượng trong thời này. Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: “Chúng sanh tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?”, kẻ thì lại cho rằng: “Ta đã là phàm phu khổ não, lo gấp thoát sanh tử làm gì, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người là được rồi!” Hai hạng người này đều chẳng hiểu rõ nhân quả vậy. Bởi thế, hôm nay tôi lại giảng về nhân quả

Các vị phải biết câu: “Chúng sanh tức là Phật” chỉ cho cái nhân chân thậtPhật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu diệu hạnh Niệm Phật thì Phật tánh không cách nào hiển hiện, làm sao giải thoát sanh tử, thành tựu thật quả Phật đạo được? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật chẳng mất mảy may. Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì lại chiếu soi hết thảy. Còn như lời lẽ: “Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật” thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, cam bề đọa lạc

Nay người đời mải lo bon chen, tranh chấp, chẳng hề đoái hoài chuyện sanh tử, chẳng biết là bao nhiêu. Nếu họ có thể dụng công tu hành niệm Phật khó nhọc như thế thì lo gì chẳng được vãng sanh Tây Phương, thượng chứng Phật quả! Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà thôi. 

Trong cuốn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đời Tùy đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị gốc bệnh cam bề đọa lạc và bệnh tự tôn, tự đại sai lầm. Giáo thuyết ấy rất tinh xác, kẻ học Phật chẳng thể không biết đến. 

“Lục tức Phật” là: một là lý tức Phật, hai là danh tự tức Phật, ba là quán hạnh tức Phật, bốn là tương tự tức Phật, năm là phần chứng tức Phật, sáu là cứu cánh tức Phật. “Lục”: minh thị thứ lớp sâu cạn, “tức”: chỉ rõ ngay nơi thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải là người, nhưng cũng chẳng thể vội bảo nó gánh vác chuyện của người đã trưởng thành được. Nếu biết rõ “tuy sáu mà thường tức” thì chẳng sẽ chẳng lui sụt, khiếp nhược. Nếu hiểu “tuy tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng mạn, từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do “lý tức Phật” mà thành “cứu cánh tức Phật” vậy. 

a. “Lý tức Phật” là hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh. Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng Phật tánh công đức vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là “lý tức Phật”, coi lý thể của tâm tức là Phật vậy. Ông Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng: 

Ðộng, tịnh lý toàn thị 

Hành, tàng sự tận phi, 

Minh minh tùy vật khứ, 

Yểu yểu bất tri quy 

(Ðộng, tịnh vốn toàn lý, 

Hành, tàng chẳng trúng gì, 

Tối tăm theo đuổi vật, 

Mờ mịt chẳng biết về) 

Ðấy là vì hết thảy chúng sanh tuy chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế mới bảo là: “Ðộng, tịnh vốn toàn lý”. Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo “Hành, tàng chẳng trúng gì” (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc làm đều chẳng xứng với Phật tánh. Quanh năm, suốt tháng, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục, phiền não vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết phản chiếu hồi quang, nên bảo là: “Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về”. 

b. “Danh tự tức Phật” là do nghe từ thiện tri thức, hoặc từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ, tịch chiếu viên dung, Phật tánh bất sanh, bất diệt. Về phương diện danh tự, thông đạt, hiểu rõ, biết hết thảy Phật pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó chính là: nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thông đạt Phật pháp. Kệ tụng rằng: 

Phương thính vô sanh khúc, 

Thỉ văn bất tử ca, 

Kim tri đương thể thị 

Phiên hận tự ta đà. 

(Vừa lắng khúc vô sanh

Thoảng nghe bài bất diệt

Liền biết ngay đương thể

Tiếc đã trót lần khân)

Ý nói: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không lúc nào kết thúc; nay mới biết Phật tánh chơn thường, bất sanh, bất diệt, đã biết đương thể chính là nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, chỉ hận từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm đến nỗi đến hiện giờ vẫn chưa thể sớm chứng Thật Quả được! 

c. “Quán hạnh tức Phật” là y giáo tu Quán, tức là địa vị ngoại phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là: 

1. Tùy Hỷ Phẩm: nghe pháp Thật Tướng, tín giải, tùy hỷ

2. Ðộc Tụng Phẩm: đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh, hiểu biết

3. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho tha nhân

4. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để hỗ trợ quán tâm

5. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Chánh hành Lục Ðộ, tự mình hành, dạy người khác hành, đầy đủ cả Sự lẫn Lý. Quán Hạnh càng thêm thù thắng

Kệ tụng rằng:

Niệm niệm chiếu thường lý 

Tâm tâm tức huyễn trần 

Biến quán chư pháp tánh 

Vô giả diệc vô chân. 

(Niệm niệm chiếu thường lý, 

Tâm tâm bặt huyễn trần 

Quán khắp các pháp tánh

Nào còn giả cùng chân)

Ðã viên ngộ Phật tánh, y giáo tu Quán để đối trị phiền não tập khí nên bảo là: “Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần”. Hiểu rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp. Hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật cho nên nói: “Quán khắp các pháp tánh, nào còn giả cùng chân”. 

c. “Tương tự tức Phật” là tương tự giải ngộ, khai phát, tức là địa vị Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng: 

Tứ Trụ tuy tiên thoát, 

Lục trần vị tận không 

Nhãn trung do hữu ế 

Không lý kiến hoa hồng 

(Trước đã thoát Tứ Trụ

Nhưng lục trần chửa không, 

Mắt vẫn còn màng mộng 

Thấy hoa đốm trên không) 

Tứ Trụ là: 

1. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới

2. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới

3. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới

4. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới

Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là: “Trước đã thoát Tứ Trụ”. Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp vẫn còn, chưa đoạn sạch nên bảo là: “Nhưng lục trần chửa không”. Ðây là luận về địa vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã hoàn toàn hết sạch. Tập khí là những dư âm của các Hoặc Chướng. Giống như cái mâm đựng thịt đã rửa sạch, nhưng vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. “Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không” là: Vì chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Pháp Giới

d. “Phần chứng tức Phật” là Thập Tín hậu tâm. Phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức nên gọi là “phần chứng tức Phật”. Là vì với bốn mươi hai phẩm Vô Minh, Sơ Trụ phá được một phần; cho đến Thập Trụ phá được mười phần. Từ các địa vị Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác lần lượt phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụthể hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của bậc này đã chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát? Kệ tụng rằng: 

Khoát nhĩ tâm khai ngộ 

Trạm nhiên nhất thiết thông 

Cùng nguyên do vị tận 

Thượng kiến nguyệt mông lung 

(Ðột nhiên tâm khai ngộ

Lặng trong hết thảy thông, 

Vẫn chưa thông tận gốc 

Còn thấy nguyệt mông lung) 

“Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là nói về cảnh tượng chứng ngộ đôi phần, phá được vô minh đôi phần. “Vẫn chưa thông tận gốc, còn thấy nguyệt mông lung” ý nói còn bị mây vô minh che lấp nên chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chơn trong tự tánh

e. “Cứu cánh thành Phật” là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên thấu đạt tột cùng Chơn Tánh, đoạn sạch Hoặc Chướng, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt để Chơn Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành Vô Thượng Bồ Ðề đạo. Kệ tụng rằng: 

Tùng lai chơn thị vọng 

Kim nhật vọng giai chơn 

Ðản phục bổn thời tánh 

Cánh vô nhất pháp tân. 

(Từ trước, chơn là vọng 

Hôm nay, vọng là chơn, 

Chỉ khôi phục bổn tánh 

Có pháp nào mới đâu?)

“Từ trước chơn là vọng” nghĩa là trước khi chứng ngộ tuy thấy Ngũ Uẩn này đều là không, nhưng lầm sanh chấp trước khiến cho Sắc Pháp, Tâm Pháp thành lập đến nỗi khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn thấy Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chơn Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn. Vì thế, bảo là: “Hôm nay, vọng là chơn”. Nhưng sở chứng ấy nào phải là điều gì mới mẻ, chẳng qua là phục hồi lại Chơn Như Phật Tánh sẵn có đó thôi, vì thế bảo: “Chỉ khôi phục bổn tánh, có pháp nào mới đâu?” 

Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi, trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ tâm, chứng tâm “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”, thấy hết thảy chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp khiến cho được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch bất tín, tâm Phật cũng không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy kẻ đó chính là vị Phật chưa thành vậy. 

Sáng hôm nay, ông Hoàng Hàm bảo tôi: “Pháp Sư Viên Anh nói đạo tràng sắp viên mãn. Ngày hoàn mãn sẽ cử hành phóng sanh. Ðến ngày 16 sẽ nói về Tam Quy, Ngũ Giới”, xin tôi vì đại chúng giảng đại ý việc phóng sanh và thọ Tam Quy, Ngũ Giới ngõ hầu mong đại chúng cùng phát tâm lợi vật, lợi người. Bởi thế, bây giờ tôi sẽ riêng tuyên giảng. 

Pháp hội này vốn là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Nếu suy xét đến tận cùng nguyên do phát khởi tai nạn thì đa phần là vì sát sanh, ăn thịt mà ra. Vì thế, muốn ngưng dứt sát kiếp, phải bắt đầu từ việc kiêng giết chóc, ăn chay, bảo vệ, tiếc thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài vật. Mọi người ai nấy phải nên phát tâm giữ gìn, thương tiếc sanh mạng loài vật. “Muốn biết binh đao trong cõi thế, lò mổ xin nghe tiếng nửa đêm” Hãy giữ hai câu ấy làm lời răn nhắc, tận lực cảnh tỉnh, kiêng dè

Ý nghĩa của việc phóng sanh là khiến cho mọi người phát tâm giữ gìn sanh mạng. Chính mình đã phóng sanh, đương nhiên sẽ chẳng sát sanh nữa. Chính mình đã chẳng phóng sanh, trông thấy người khác phóng sanh, lẽ nào còn nỡ sát sanh? Nếu ai nấy giữ gìn, thương tiếc sanh mạng, chẳng tàn hại nữa thì loài vật còn chẳng nỡ giết, huống hồ là giết người? Tự nhiên trừ được sát kiếp, chuyển được vận nước. Nhưng đời vẫn có kẻ một mặt bỏ tiền phóng sanh, một mặt vẫn sát sanh, ăn thịt như thường. Như vậy dù có chút công đức phóng sanh, vẫn e khó địch nổi tội lỗi sát sanh lớn lao! 

Hiện pháp hội này dự định ngày viên mãn sẽ cử hành phóng sanh, xin các vị phát tâm quyên trợ, tự lợi, lợi vật, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến ngày kế đó, đệ tử quy ycúng dường chi, Ấn Quang tôi quyết định dùng hết vào việc ngăn ngừa tai nạn, trọn chẳng để dùng một đồng nào! Bởi lẽ, tôi là một ông Tăng trơ trọi, vốn đã không có chùa miếu, lại cũng chẳng có đồ đệ, trừ thức ăn, quần áo ra, có giữ tiền cũng vô dụng! Mai kia mạng chung, sau khi hỏa thiêu, đem tro rải xuống biển là hết chuyện, cũng chẳng cần phải tạo tháp và làm bất cứ hình thức kỷ niệm nào. 

Ngay cả việc quy y đây, từ đầu tôi vốn chẳng thuận, nhưng bởi cư sĩ Khuất Văn Lục và pháp Sư Viên Anh đốc thỉnh, viện lẽ các vị phát tâm cầu pháp tình ý ân cần, vì thỏa mãn ý nguyện của họ, chẳng thể khước từ, nên đành chấp thuận. Tôi vốn xem nhẹ tiền bạc, chẳng giống những người khác, mỗi tên đệ tử phải xuất tiền “hương kính” bao nhiêu đó mới chuẩn bị cho quy y. Tôi thì không tiền cũng quy y được, chỉ cần thành kính tu trì mà thôi. Bởi lẽ, chẳng thể coi chuyện quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao nhiêu đó mới mua được danh mục quy y! Như thế thì mới là tín đồ chơn thật quy y Tam Bảo, mới có thể đạt đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27521)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29354)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22161)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24423)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29312)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28114)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29231)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20643)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28323)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23676)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39669)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24856)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21774)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29167)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20487)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21261)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35377)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24576)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31376)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26254)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20308)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22996)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30111)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21639)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20310)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20812)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28834)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34778)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22589)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21408)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29555)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35208)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28858)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21361)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24101)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20884)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34349)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22520)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25163)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant