Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thư Mục Tham Khảo

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9649)
Thư Mục Tham Khảo

KINH PHÁP HOA TINH YẾU
Bhikkhu Thích Thái Hòa

Thư Mục Tham Khảo

- Hán Bản:

1-Tát-đàm-phân-đà-lỵ kinh, mất tên người dịch, số ký hiệu 265, Đại chính 9, tr 197.
2- Chánh Pháp Hoa Kinh, Trúc Pháp Hộ dịch, năm 286, số ký hiệu 263, Đại chính 9, tr 63.
3- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập dịch, năm 404, số ký hiệu 262, Đại chính 9, tr 01.
4- Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh, Trí Nghiêm dịch, Lưu Tống ( 420 – 479), số ký hiệu 269, Đại chính 9, tr 285.
5- Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Xà-na-quật-đa và Cấp-đa dịch, năm 601, số ký hiệu 269, Đại chính 9, tr 131.
6- Pháp Hoa Kinh Nghĩa Ký, Pháp Vân soạn, đời Lương, Đại chính 33, tr 572.
7- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa, Trí Khải thuyết, Tùy, số ký hiệu 1717, Đại chính 33, tr 681.
8- Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm, Trạm Nhiên, Thuật, Đường, Đại chính 33, tr 815.
9- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú, Trí Khải thuyết, Tùy, số ký hiệu 1719, Đại Chính 34, tr 01.
10- Pháp Hoa Huyền Luận, Cát Tạng soạn, Tùy, Đại chính 34, tr 361.
11- Pháp Hoa Nghĩa Sớ, Cát Tạng soạn, Tùy, Đại chính 34, tr 451.
12- Pháp Hoa Du Ý, Cát Tạng tạo, Tùy, Đại chính 34, tr 633.
13- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, Khuy Cơ soạn, Đường, Đại chính 34. tr 651.
14 – Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa Quyết, Tuệ Chiếu soạn, Đường, Đại chính 34, tr 854.
15- Pháp Hoa Tông Yếu, Nguyên Hiểu soạn, Tân La, Đại chính 34, tr 870.
16 – Ma Ha Chỉ Quán, Trí Khải thuyết, Đại chính 46, tr 01.
17- Pháp Hoa Nghĩa Sớ, Thánh Đức Thái Tử soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 64.
18- Pháp Hoa Lược Sao, Minh Nhất soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 129.
19- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thích Văn, Nhật Bản, Minh Toán soạn, Đại chính 56, tr 144.
20- Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Không Hải soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 172.
21- Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Biến Chiếu Xà Lê Ký, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 175.
22- Pháp Hoa Lược Bí Thích, Trường Khoan Tam Niên Tứ Nguyệt Thập Tứ Nhật Ư Khuyến Tu Tự, Tây Minh Viện Thơ Tả Liễu, Đại chính 56, tr 183.
23- Pháp Hoa Kinh Mật Hiệu, Đại chính 56, tr 182.
24- Pháp hoa Bí Thích, Giác Khâm? , Đại chính 56, tr 184.
25- Nhập Chân Ngôn Môn Trú Như Thực Kiến Giảng Diễn Pháp Hoa Lược Nghi, Viên Trân, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 189.
26- Pháp Hoa Khai Thị Sao, Trinh Khánh soạn, Nhật Bản, Đại chính 56, tr 255.
27- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá, Bà Sô Bàn Đậu (Vasubandhu) thích, Bồ Đề Lưu Chi Cộng Đàm Lâm,… dịch, Hậu Ngụy, Đại chính 26, tr 01.
28- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá, Bà Sô Bàn Đậu (Vasubandhu) tạo, Cần Na Ma Đề, Cộng Tăng Lãng dịch, Nguyên Ngụy, Đại chính 26, tr 10. 
29- Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do Minh Dung – Pháp Thông khắc in đời Lê Thuần Tông (1732 – 1735), bản gỗ hiện đang tàng trữ tại chùa Phật Quang, Thị xã Phan Thiết.
30- Pháp Hoa Kinh Tông Chỉ Đề Cương, Thanh Đàm Tỷ Kheo, Giác Đạo Tuân Minh Chánh Thiền Sư soạn, Bản khắc Hoàng Triều Bảo Đại, cửu niên, tứ nguyệt sơ thập nhật, Việt Nam Phật Điển Tòng San.
31- Đại Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tạo, Hậu Tần, La Thập dịch, Đại chính 25, tr 57.

-Phạn Bản
 -Saddharmapuṇḍarīkasūtram-Buddhist Sanskrit Texts – No 6.

- Anh Bản:

1-The Lotus of the True Law: 
Do Kern, Nhà Phật học Hòa Lan dịch từ bản Phạn văn Népal, năm 1880, gồm có 27 phẩm, hiện có ở trong The Sacred of the East.

2- The Lotus Scripture Essence:
Bộ nầy là lược dịch từ bản chữ Hán của Ngài La Thập, gồm có 28 phẩm, hiện nằm trong bộ The New Test Ament of High Buddhism của Lichard, xuất bản năm 1900.

3- The Lotus of the Wonderful Law:
Do hai nhà học giả Soothill và Kato dịch, gồm có 28 phẩm, xuất bản tại London năm 1930.

4-The Lotus Sutra:
Do Senchu Muarano dịch từ bản của Ngài La Thập, Nhật Liên Tông tại Nhật xuất bản 1974.

5-The Lotus Sutra:
Do Burton Watson dịch từ bản Hán của Ngài La Thập, Columbia University Press New york, 1993.

 -Pháp Bản:

- Le Lotus De La Bonne Loi, do Hàn Lâm Học Sĩ E. Burnouf dịch từ bộ Phạn ngữ Népal vào năm 1925.

-Việt Bản:

1- Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh, Pháp Liên dịch từ bản Hán của La Thập sang chữ Nôm năm 1848, in năm 1856.
2- Pháp Hoa Lược Giải, Trí Quang Thượng Nhân, NXB TP Hồ Chí Minh, 1998.
3- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, NXB Tôn Giáo, 2001.
4- Đại ý Kinh Pháp Hoa, Thích Thanh Kiểm, Thành Hội PG T.P Hồ Chí Minh, ấn hành 1990.
5- Luợc Giải kinh Pháp Hoa, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế, ấn hành năm 2003.
6- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Nhà xb Tôn Giáo 2003.
7- Sen Nở Trời Phương Ngoại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Lá bối xb 19?
8- Lược giải kinh Pháp Hoa, Hòa Thượng Thích Trí Quảng, xuất bản Tôn Giáo 1999.
9- Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa, Hám Sơn – Đức Thanh, Hòa Thượng Trí Tịnh dịch và giảng, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2007.

 Sách

1- Hoằng Tán Pháp Hoa Truyện, Đường, Huệ Tường soạn, Đại chính 51, tr 12.
2- Pháp Hoa Truyện Ký, Đường, Tăng Tường, soạn, Đại chính 51, tr 48.
3- Thiên Thai Cửu Tổ Truyện, Tống, Sĩ Hành biên, Đại chính 51, tr 97.
4- Phật Tổ Thống Kỷ, Tống, Chí Bàn soạn, Đại chính 49, tr 129.
5- Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, Tùy, Phí Trường Phòng soạn, Đại chính 49, tr 22.
6- Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải, Nguyên, Niệm Thường tập, Đại chính 49, tr 477.
7- Hoằng Minh Tập, Lương, Tăng Hựu soạn, Đại chính 52, tr 01.
8- Quảng Hoằng Minh Tập, Đường, Đạo Tuyên soạn, Đại chính 52, tr 97.
9- Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục, Cảnh Hưng Bát Niên, Tuế Thứ Đinh Mão, Ngũ Nguyệt, Cát Nhật Từ Pháp Soạn Thuật – (Cảnh Hưng 8 – 1747).
10- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, Tân Việt, 1954.
11- Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam I, Lê Mạnh Thát, Thuận Hóa 1999.
12- Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam 2, Lê mạnh Thát, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 2001.
13- Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam 3, Lê Mạnh Thát, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh 2002.
14- Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang, Nxb Văn Học, Hà Nội 1992.
15- Toàn Tập Minh Châu Huơng Hải, Lê Mạnh Thát, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 2000.
16 – Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục Giảng Giải, Thích Thanh Từ, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 1999.
17- Thánh Đăng Ngữ Lục Giảng Giải, Thích Thanh Từ, Nxb T.P Hồ Chí Minh, 1999.
18- Toàn Tập Trần Thái Tông, Nxb Tổng Hợp T.P Hồ Chí Minh 2004.
19- Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông, Thích Thanh Kiểm dịch, Nxb Tôn Giáo, 2003.
 20- Toàn Tập Trần Nhân Tông, Nxb Tổng Hợp T.P Hồ Chí Minh 2006.
 21- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nxb Văn Học, 2006.
 22- Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong, Nguyễn Hiền Đức, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995.
 23- Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát, Nxb Phương Đông, 2005.
 26 – Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đài, Lê Mạnh Thát, Nxb Tổng Hợp TP, Hồ Chí Minh, 2005.
 27- Lịch Sử Phật Giáo Huế, Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm, Nxb Văn Hóa Sài Gòn.
 
 
 

1 Chánh Pháp Hoa Kinh, Pháp Hộ, Đại Chính 9, tr 63.
2 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 01.
3-Tăng Duệ, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Hậu Tự, Đại Chính 9, tr 62a. 
4 - Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Nhật Bản, Không Hải soạn, Đại Chính 56, tr 173ab.
5 - Chánh Pháp Hoa Kinh, Pháp Hộ, Đại Chính 9, tr 63

6 La Thập, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Đại Chính 9, 01. 

7 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Đại Chính 9, tr 35c. 
8 –Tăng thượng mạn: Phạn văn là adhimāna. Tâm kiêu mạn, chưa chứng đắc quả vị hoặc trí đức thực sự mà tự nhận rằng, mình đã kinh qua và chứng đắc (Phật Quang Đại Từ Điển 6, tr 5812b).

9 Thanh Đàm, Pháp Hoa Đề Cương, Việt Nam Phật Điển Tòng San.
10 Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Không Hải, Nhật Bản, Đại Chính 56, tr 173bc.
- Tỳ Lô Giá Na: Phạn là Vairocana. Phiên âm là Tỳ lô giá na, Tỳ lâu giá na, Tỳ lô chiết na,... Dịch ý là Biến nhất thế xứ; nghĩa là có mặt khắp mọi nơi; hoặc dịch là Quang minh biến chiếu, nghĩa là ánh sáng soi chiếu cùng khắp; Đại nhật biến chiếu, nghĩa là mặt trời vĩ đại soi chiếu cùng khắp,… Như vậy, Tỳ lô giá na, nghĩa là thân trí tuệ của Phật soi sáng cùng khắp, không có bất cứ sự chướng ngại nào, đối với sự và lý ở trong pháp giới (Phật Quang Đại Từ Điển 4, tr 3858, 3850).

 [1][1] Như Lai Thọ Lượng phẩm, Hán – La Thập, Đại Chính 9, tr 42.
- Tathāgāyuspramānaparivartah - Buddhist Sanskrit Texts, No 6, P.189. 
 [2][2] Phương Tiện phẩm, Hán – La Thập, Đại Chính 9, tr 02.
- Lysāya kai’slyaparivartah - Buddhist Sanskrit Texts, No 6, P.21.
 [3][3] Kiến Bảo Tháp phẩm, Hán – La Thập, tr 32, Đại Chính 9.
- Stūpasamdar’sānaparivartah – Buddhist Sanskrit Texts, No 6, P.149.
 [4][4] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 8b. 
 [5][5] Pháp Sư phẩm, Đại Chính 9, , tr 31c.
 [6][6] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 9b. 
 [7][7] Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 28a.
 [8][8] Phương Tiện phẩm, tr 10b, Đại Chính 9.
 [9][9] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 10a.
 [10][10] Thí Dụ phẩm, Đại Chính 9, tr 10c.
 [11][11] Tín Giải phẩm, Đại Chính 9, tr 16.
 [12][12] Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 20.
 [13][13] Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 27.
 Thọ Học Vô Học Nhân Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 29.
 [14][14] Tín Giải phẩm, Đại Chính 9, tr 16.
 [15][15] Đề Bà Đạt Đa phẩm, tr 35A, Đại Chính 9.
 [16][16] Đề Bà Đạt Đa phẩm, tr 34, Đại Chính 9.
 [17][17] Kiến Bảo Tháp phẩm, tr 32, Đại Chính 9.
 [18][18] Như Lai Thọ Lượng phẩm, tr 42, Đại Chính 9.
 [19][19] Gia trì cho đức tin Pháp Hoa để có đủ năng lực hoằng truyền kinh này, chứa đựng ở phẩm 10 và từ phẩm 21-27 của kinh Pháp Hoa.
 [20][20] Như Lai Thần Lực phẩm, Đại Chính 9, tr 52a.
 [21][21] Thí Dụ phẩm, Đại Chính 9, tr 10c.
 [22][22] Dược Thảo phẩm, Đại Chính 9, tr 19. 
 [23][23] Hóa Thành Dụ phẩm, Đại Chính 9, tr 22. 
 [24][24] Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký phẩm, Đại Chính 9, tr 27.
 [25][25] Khuyến Trì phẩm, tr 36A, Đại Chính 9.
 [26][26] Sách và trang đã dẫn như trên.
 [27][27] An Lạc Hạnh phẩm, Đại Chính 9, tr 38 c.
 [28][28] Phân Biệt Công Đức phẩm, Đại Chính 9, tr 44.
 [29][29] Tùy Hỷ Công Đức phẩm, Đại Chính 9, tr 46.
 [30][30] Pháp Sư Công Đức phẩm, Đại Chính 9, tr 47.
 [31][31] Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự phẩm, Đại Chính 9, tr 47.
 [32][32] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 9a.
 [33][33] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 7c.
- Upàyakai’salyaparivartah, Buddhist Sanskrit Texts, No.6, P.30.
 [34][34] Pháp Sư phẩm, Đại Chính 9, tr 31c.
 [35][35] An Lạc Hạnh phẩm, Đại Chính 9, tr 37b.
 [36][36] Phổ Môn phẩm, Đại Chính 9, tr 58a.
 [37][37] Pháp Sư phẩm, Đại Chính 9, tr 30c.
 [38][38] Phương Tiện phẩm, Đại Chính 9, tr 5c.
 [39][39] Như trên.
1 Nhất Hạnh, Sen Nở Trời Phương Ngoại, Lá Bối xuất bản?.
2 - Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 5b.
3 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 10c. 
4 Như trên, tr 11b.
5 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính, tr 34c - 35a.
6 Như trên, tr 35a.
7 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 36a 
8 Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, La Thập, Đại Chính 9, tr 52c.
1 Kinh Ariyapariyesena.
2 Diệu Pháp Liên Hoa Hoa Kinh – Phương Tiện Phẩm, Đại Chính 9, tr 10a.
3 Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân Kinh, Tạp A Hàm, Đại Chính 2, tr 504.
4 Theo thư tịch Bắc truyền, thì Ngài Ca Diếp chủ tọa Hội nghị. Nhưng theo thư tịch Nam truyền, thì Ngài Ưu ba li chủ tọa Hội nghị.
5 Có tư liệu cho rằng, Đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, không xảy ra dưới thời vua A`soka (A Dục), vì thời nầy chư Tăng phân hóa, mà hội nghị xảy ra tại đảo quốc Tích Lan dưới Triều vua nước ấy, trùng tên với A`soka (A Dục).
6 Wintenitz, p 304, of his History vol II – P.L Vaidya – Introduction – Buddhist Sanskrit texts, No 6.
7 Translator `s Introduction – The Lotus Sutra.
8 Đại Chính 26, tr 01- 20.
9 Ngụy Thư – Thích Lão Chí.
10 Hậu Hán Kỷ - Phật Tổ Thống Kỷ.
11 Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Đại Chính 17,tr 722.

 Vi tính: Quảng Huệ, Thái Tịnh, Mãn Toàn.
 Chính tả: Nhuận Tâm Dung, Nhuận Bảo Châu, Nhuận Uyên Như.
 Ấn tống: Tâm Thảo - Bảo Tâm.

Người gửi bài: Tâm Minh 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31293)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18580)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25158)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23791)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28961)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20889)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31464)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25561)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29734)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22538)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25740)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23305)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25760)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23754)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40624)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23361)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22475)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23521)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24334)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41130)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19012)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20508)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27742)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38138)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24514)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22738)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26564)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53599)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23626)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21114)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30862)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21072)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38807)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20567)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20614)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27072)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28098)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37172)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55190)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37993)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14577)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10658)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant