Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Đạo Bụt Đại Thừa chống báng việc thần-thánh-hóa Bụt Thích Ca

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10735)
6. Đạo Bụt Đại Thừa chống báng việc thần-thánh-hóa Bụt Thích Ca

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần I: Kinh Pháp Hoa và Đạo Bụt Đại Thừa 

Đạo Bụt Đại Thừa chống báng việc thần-thánh-hóa Bụt Thích Ca

Ta nên biết rằng khi Bụt nhập diệt rồi thì có một niềm thương tiếc rất lớn lao phát sinh trong giáo đoàn. Ai cũng thấy có một khoảng trống rất lớn. Điều này cũng đã xảy ra trong lịch sử của Ki-tô Giáo. Khi Chúa mất đi, sự thương tiếc và quí trọng Chúa cũng đã trở nên rất lớn lao.

Đối với đạo Bụt, chính nhờ sự nhập diệt mà nhiều vị đệ tử của Ngài mới thấy được giá trị của Bụt Thích Ca. Sự thương tiếc, quí trọng đó đã được biểu hiện trên mọi hình thứcHình thức đầu tiên là phải lập Tháp để thờ. Hình thức thứ hai là thần thánh hóa Bụt, trang sức cho Bụt bằng những phép thần thông, những khả năng mà người thường không thể đạt được. Như vậy, do sự thương tiếc, quí trọng, yêu mến mà người ta đã đem những phép tắc thần thông phủ trùm lên con người của Bụt, và từ một con người, Bụt biến thành một Siêu nhân, một Superman. Khi vòng hào quang phủ nhiều quá lên người, thì Bụt mất đi cái tính cách người của Bụt, cho nên giữa Bụt và chúng ta có một sự xa cách. Đó là một điểm tuy tích cực nhưng cũng là tiêu cực, vì từ đó mà có một số đông người đã cho rằng những điều Bụt làm, chỉ có Bụt mới làm được, còn chúng ta thì đành bó tay! Trong khi đó thì tinh thần giáo lý Nguyên Thủy của Bụt không phải như vậy. Khi cái quan niệm về Bụt đã đạt tới độ cho Bụt là một siêu nhân, thì tự nhiên trong giáo hội phát sinh ra niềm tin rằng Bụt là một người rất đặc biệt, không phải là người thường, chúng ta là học trò của Ngài thì không thể nào thực hiện được những gì Bụt đã thực hiện. Khi mình nói tôi không thể nào thành Bụt được hay tôi không cần phải thành Bụt vì tôi hiện cũng đang có nhiều hạnh phúc, thì khi đó mình là những người có mặc cảm tự ty, và chống đối lại tinh thần Nguyên Thủy của Bụt. Đây là thái độPhật giáo Đại Thừa công phá kịch liệt, vì người ta đưa Bụt lên cao quá, vẽ ra nhiều hào quang chói sáng quá quanh Bụt, làm cho Bụt mất hết bản chất con người của Ngài. Khi viết cuốn Đường Xưa Mây Trắng, tôi đã cố gắng tháo gỡ những hào quang đó để đưa Bụt về như một con người gần gũi chúng ta, để chúng ta có thể thấy được Bụt là một người anh, một người thầy, một người bạn, một người cha.

Trong Ki-tô giáo ta cũng thấy những hiện tượng tương tự. Khi đức Ki-tô còn sống, có lẽ người ta đã không quí trọng Ngài bằng lúc Ngài đã qua đời. Lúc đó mười mấy đệ tử của Ngài và những người đã được gần gũi Chúa mới giật mình. Bấy giờ họ mới nhận thức được rằng những giây phút mình được gần Chúa, được ngồi ăn cơm với Chúa là những giây phút rất quí báu. Những tiếc thương đó làm cho niềm tin, làm cho năng lượng ở trong những đệ tử của Chúa trở nên rất lớn lao. Hồi đó Ki-tô giáo chưa có giáo hội, chỉ mới có những người mang tư tưởng mình là người theo Chúa Ki-tô thôi. Nhưng vì những tiếc thương đó mà người ta muốn thành lập một truyền thống. Hồi đó Ki-tô giáo bị cấm đoán vì chính quyền không nhìn nhận Chúa, và cũng không cho phép nhóm người có cảm tình với Chúa hoạt động. Họ bị xem là nhóm gây xáo trộn trong xã hội.

Chúng ta biết rằng Bụt cũng là một nhà cách mạng, Bụt đã công kích chế độ giai cấp và sự kỳ thị phụ nữ, chống đối tới cùng những tư tưởng của Bà La Môn Giáo. Nhưng Bụt đã may mắn hơn Chúa Ki-tô, Ngài không bị đóng đinh. Các ð® tØ cüa Chúa và nhæng v¸ đã được gặp Chúa, đã được nghe Chúa nói chuyện, cùng nhau thành lập một Giáo hội tư, nghĩa là không chính thức. Họ tổ chức hội họp với nhau, ôn lại những lời Chúa Ki-tô đã nói và thực tập theo lời Chúa Ki-tô dạy. Họ dùng hình tượng của con cá như một dấu hiệu bí mật để tụ họp. Trong Thánh Kinh có đoạn nói rằng: Này các vị, đừng đánh cá nữa, hãy đi theo tôi để Ộđánh cá ngườiỢ nghĩa là để giúp người trở về với chân lý, tung ra một màng lưới cứu người. Vì vậyhình tượng của con cá rất quan trọng ở trong đạo Ki-tô. Khi đi dọc bờ biển trong vùng, thỉnh thoảng người ta thấy được hình dáng một con cá vẽ rất đơn sơ. Nếu đi theo những hình vẽ trên bãi cát hay trên mỏm đá, chúng ta có thể tới nơi hội họp bí mật của những đệ tử đầu tiên của Chúa. Cũng trong cái tâm trạng thương tiếc và kính phục đó, những đệ tử đầu tiên của Chúa đã khoác lên người của Chúa những vòng hào quang rất lớn. Họ cũng làm giống hệt như bên đạo Bụt, cho rằng tuy Bụt đã mất rồi, nhưng Ngài vẫn còn sống hoài với chúng ta. Chúa Ki-tô cũng vậy, Chúa tuy đã bị giết rồi, nhưng Chúa đã sống lại và Chúa bất tử.

Tuy nhiên hai tôn giáo rất khác nhau. Bên đạo Bụt có quan niệm Pháp thân thường tại, còn bên đạo Chúa có quan niệm Chúa vĩnh cửu, Chúa thường hằng ở trên đời, The Living Christ. Ai cũng muốn Bụt của mình, Chúa của mình vừa vĩnh viễn, vừa có hào quangVì vậy cho nên tôn giáo thường được thiết lập trên sự thương tiếc, mến chuộng, và sự thần thánh hóa vị Giáo chủ của mình. Bên đạo Bụt, có khuyết điểm là cái mặc cảm rằng mình không bao giờ có thể làm được như Bụt, và mình không cần làm như Bụt mà cũng được sung sướng chán. Bên Ki-tô giáo cũng có một khuyết điểm, đó là họ đã coi cái chết của Chúa quan trọng hơn cái sống của Chúa. Trong sự thực tập của những người Ki-tô, họ không quí trọng và đem áp dụng lời dạy của Chúa nhiều bằng việc nghĩ đến chuyện sau khi chết mình sẽ đi về đâu, nghĩa là họ lo chuyện tương lai nhiều hơn chuyện hiện tại. Và đa số giáo điều của giáo hội được thiết lập quanh cái chết của Chúa. Khi sinh tiền, Chúa đã dạy rất nhiều điều, từ bài giảng trên núi, cho đến những bài giảng ở đồng bằng, giảng bằng lời nói, bằng hành động của chính Chúa. Đó là tinh hoa của đạo Ki-tô, cũng như những điều Bụt đã dạy trong kinh, và đời sống của Bụt là tinh hoa của đạo Bụt. Phật tử cũng có nhiều người đi tìm cái tinh hoa của đạo Bụt ở chỗ khác, ví dụ như họ đi tìm hạnh phúc tương lai ở một cõi như cõi cực lạc. Thay vì học lời dạy của Bụt, học cách hành xử, cách sống của Bụt để mình có thể sống cuộc sống hiện tại, thì họ tin ở một cõi và một vị Bụt siêu xuất thế gian nhiều hơn. Họ ưa đi theo một vị Bụt có hào quang, một vị Bụt vĩnh viễn. Bên đạo Ki-tô cũng có hiện tượng tương tự. Hiện nay trong giới Thần học có một khuynh hướng gọi là Secular Christianity, chủ trương trở về học giáo lý của đức Ki-tô dạy trong kinh điển và sống như đức Ki-tô đã sống, hơn là đi tìm một sự giải thoát ở mai hậu, ở trong một nước thiên đường. Các hiện tượng tương tự cũng đang xảy ra trong lĩnh vực đạo Bụt. Trong giáo hội Phật giáo cũng như trong Ki-tô giáo có những giáo điều mới, không phải là căn bản, nhưng người ta cho là căn bản. Ví dụ như tin rằng Chúa đã sống dậy, tin rằng đức Mẹ Maria là một trinh nữ v.v... Nếu không tin vào những điều đó thì không được chính thức làm học trò của Chúa.

Tôi không nghĩ những điều đó là căn bản của đạo Ki-tô. Điều căn bản là phương thức sống mà Chúa đã dạy ở trong kinh điển, không chỉ dạy bằng lời nói mà còn bằng cách sống của Chúa. Nghiên cứu truyền thống của hai tôn giáo, ta thấy có hai khuynh hướng tương tự như nhau, có ưu điểm nhưng cũng có khuyết điểm. Vì vậy khi học Cơ Đốc giáo, người Phật tử mới thấy được sự hình thành của Cơ Đốc giáo cũng tương tự như tiến trình của Phật giáo. Ngược lại, khi người con Chúa nghiên cứu về Phật giáo, thì họ cũng thấy được những khuynh hướng tương đồng giữa hai tôn giáo lớn này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24032)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27522)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29354)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22164)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24423)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29314)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28116)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29232)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20645)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28327)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33231)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39669)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19406)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24856)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21774)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29168)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20489)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21263)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35379)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24579)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31377)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26255)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20308)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22996)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30112)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21641)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20312)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20812)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28834)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34779)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22591)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21409)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29555)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35208)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28859)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21361)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27058)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24102)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20884)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22521)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25164)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant