Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

14 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 20121)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: VẤN ĐÁP VỀ ĐẤNG TẠO HÓA
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữTuệ Uyển – 08/05/2011

blankHỎINgài đã từng nói rằng theo triết lý Đạo Phật không có đấng Tạo Hóa, không có Thượng Đế tạo dựng, và điều này có thể bắt đầu làm cho nhiều người chấm dứt niềm tin trong quan kiến thiêng liêng. Ngài có thể giải thích sự khác biệt giữa Đức Phật Nguyên Sơ Kim Cương Thừa và một Thượng Đế Tạo Hóa không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi thấu hiểu Đức Phật Nguyên Sơ, cũng được biết như Đức Phật Phổ Hiền, là thực tại tối hậu, thế giới của Pháp Thânkhông gian của tính không – nơi mà tất cả mọi hiện tượng, thanh tịnhnhiễm ô, là hòa tan. Đây là sự giải thích được dạy bởi Kinh điểnMật điển. Tuy nhiên, trong phạm vi câu hỏi này, chỉ truyền thống mật tông tantra giải thích Pháp Thân trong dạng thức của Linh quang bản nhiên, (hay tịnh quang bản nhiên), bản chất tối hậu của tâm; điều này dường như bao hàm tất cả mọi hiện tượng, luân hồiniết bàn, sinh khởi từ cội nguồn trong suốt và rực rở này. Ngay cả Tân Phái Diễn Dịch cũng đã đi đến kết luận rằng “thể trạng giải thoát” của một hành giả Đại Du Già – Đại Du Già bao hàm ở đây là thể trạng của hành giả đã đạt đến tầng bậc trong thiền quán nơi mà những kinh nghiệm vi tế nhất của linh quang đã được thân chứng – mà điều ấy cho đến khi nào hành giả tiếp tục trong không gian căn bản này người ấy sẽ duy trì sự tự do hoàn toàn khỏi bất cứ ngăn che chướng ngại nào của tâm, và chìm sâu trong thể trạng của đại lạc.

Do thế, chúng tôi có thể nói rằng, cội nguồn căn bản ấy, linh quang, là gần với khái niệm Đấng Tạo Hóa, vì tất cả mọi hiện tượng, cho dù chúng thuộc luân hồi hay niết bàn, đều phát khởi từ trong ấy. Nhưng chúng tôi phải hết sức cẩn thận trong việc nói về cội nguồn này, chúng tôi không được dẫn vào trong sai lầm. Tôi không muốn nói rằng có một sự hiện hữu ở nơi nào đấy, như là ở đấy, có một loại linh quang tập hợp, tương tự khái niệm không phải Phật Giáo về Phạm thiên như một nền tảng. Chúng tôi không được thần tượng, sùng bái không gian rực rỡ này. Chúng tôi phải thấu hiểu rằng khi chúng tôi nói về linh quang tối hậu hay cố hữu, là chúng tôi đang nói trên một mức độ cá nhân[1].

Giống như thế, khi chúng tôi nói về nghiệp báo như nguyên nhân của vũ trụ, chúng tôi loại trừ khái niệm của một tổng thể đặc thù gọi là nghiệp tồn tại một cách hoàn toàn độc lập. Đúng hơn, những dấu vết nghiệp tập thể - cộng nghiệp, và nghiệp cá thể - biệt nghiệp, là nguyên nhân ban sơ của việc hình thành nên một thế giới. Trong phạm vi mật tông, khi chúng tôi nói rằng tất cả các thế giới xuất hiện ra từ linh quang, chúng tôi không quán tưởng cội nguồn này như một thực thể đặc thù, mà như linh quang tối hậu của mỗi chúng sinhChúng tôi cũng có thể, trên căn bản của sự thanh tịnh cốt yếu của nó, thấu hiểu rằng linh quang này là Đức Phật Nguyên Sơ. Mọi tầng bậc tạo nên sự sống của mỗi chúng sinh – chết, trung ấm thân, và tái sinhđại diện không gì hơn sự biểu hiện đa dạng năng lực của linh quang. Nó là cả tâm thứcnăng lượng vi tế nhất. Linh quang càng mất sự vi tế của nó bao nhiêu, chúng ta tiếp nhận những kinh nghiệm biểu lộ sự định hình càng thô thiển hơn bấy nhiêu.

Trong cách này, chết và trung ấm thân là những thời khắc nơi mà những biểu lộ thô thiển bắt nguồn từ linh quang được tái hòa tan. Vào lúc chết, chúng ta trở lại cội nguồn nguyên sơ, và từ đấy có một thể trạng hơi thô thiển hơn nổi lên để hình thành trạng thái trung ấm trước khi tái sinh. Tại trạng thái tái sinh, linh quang hiển hiện trong sự hóa thân vật lý. Vào lúc chết chúng ta trở lại nguồn cội này. Và tiếp diễn như thế. Khả năng để thực chứng linh quang, cũng gọi là Đức Phật Nguyên Sơ, tương đương với sự thân chứng niết bàn, trái lại bản chất vô minh si ám khiến chúng ta lang thang vần xoay trong những thế giới khác nhau của vòng luân hồi sinh tử (gồm sáu cõi là địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, người, a tu la, và cõi thiên).

Đây là việc chúng tôi hiểu khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ như thế nào. Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, nếu nhận thức điều này như một sự hiện hữu độc lập và tách biệt với sự không có bắt đầu của thời gian (vô thủy). Nếu chúng ta đã phải chấp nhận khái niệm của một tạo hóa độc lập, những giải thích trong Thích Lượng Luận, “Tóm Lược Những Tri Thức Vững Chắc” của Pháp Xứng, và trong chương thứ chín tác phẩm của Tịch Thiên, đã hoàn toàn bác bỏ sự tự tồn tại của tất cả mọi hiện tượng, sẽ bị phủ nhận. Đến lượt điều này sẽ bác bỏ khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ. Quan điểm của Đạo Phật không chấp nhận những giá trị xác định không đứng vững trên sự thẩm tra hợp lý. Nếu một kinh điển diễn tả Đức Phật Nguyên Sơ như một thực thể độc lập, thì chúng ta phài có thể làm sáng tỏ sự thừa nhận này mà không cần phải chấp nhận nó một cách lý thuyết. Chúng ta gọi loại kinh điển này là kinh điển “có thể giải thích được” (kinh bất liễu nghĩa).

HỎIQuan tâm trong những khám phá của vật lý học thiên thể hiện đại và thuyết vụ nổ lớn “Big bang” khơi mở cả một sự hấp dẫn lớn trong vũ trụ và một cuộc thăm dò điều tra bởi những thành viên trong thế hệ của chúng ta về cội nguồn của họ, số phận của họ, và ý nghĩa sự tồn tại của họ. Thuyết “Big bang”đã có một tác động nổi bật trong cung cách nhìn vào vấn đềbản chất tự nhiên; nó đã giới thiệu những sáng kiến nhận thức mới đáng kể. Sự hình thành những cấu trúc của vũ trụ, với sự thể hiện chức năng phụ thuộc tương liên (duyên sinh), và với sự nghiên cứu tiếp tục để khơi mở, dường như là một cội nguồn bất tận của kỳ diệu. Giống như tất cả những truyền thống tâm linh, Đạo Phật chuyển tải một sự huyền bí vũ trụ. Tuy nhiên, Đạo Phật phủ nhận quan điểm về đấng tạo hóa. Tại sao?

Hầu hết các nhà khoa học phương Tây nghĩ rằng sự sống và tâm thức là một kết quả diệu kỳ của sự tiến hóa vật chất của vũ trụ, và tuy thế họ không biết làm thế nào cũng như không biết tại sao vấn đề nảy ra trong một cung cách như vậy lại hoàn thành những điều kiện cần thiết để làm nên sự sống và tâm thức. Những gì người ta biết là những điều kiện này rất là nghiêm ngặt, tuy thế đã hoàn tất trong vũ trụ của chúng ta trong một cung cách không thể tưởng tượng nổi. Ngài có một quan điểm rất khác biệt với đề tài này. Do vậy, ngài có thể vui lòng nói với chúng tôi về tâm thức trong sự liên hệ của nó với vật chấtvũ trụ không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tại sao không thể có sự sáng thế trong Đạo Phật? Như được nói rằng người ta không thể tìm thấy chúng sinh trong sự hình thành vũ trụ vì một lý do căn bản rằng những nguyên nhân không có sự bắt đầu (vô thỉ). Nếu có sự bắt đầu của vũ trụ, cũng sẽ có sự bắt đầu của tâm thức. Nếu chúng ta chấp nhận một sự bắt đầu của tâm thức, chúng ta cũng phải chấp nhận rằng nguyên nhân của nó có một sự khởi đầu, một nguyên nhân đột khởi sản sinh tâm thức; điều này sẽ đưa đến nhiều câu hỏi to lớn khác. Nếu tâm thức đã sinh khởi mà không có nguyên nhân, hay từ một nguyên nhân thường còn, nguyên nhân ấy sẽ phải tồn tại trên một căn bản thường hằng, luôn luôn, hay hoàn toàn không hiện hữu, mãi mãi. Thực tế rằng một hiện tượng tồn tại từng thời điểm chứng tỏ rằng nó tùy thuộc trên nhân duyên (nguyên nhânđiều kiện). Khi tất cả mọi điều kiện được gặp gỡ, hiện tượng được sản sinh. Khi nhưng nguyên nhân đó vắng mặt hay không hoàn toàn, hiện tượng sẽ không xuất hiện. Như những nguyên nhân không có bắt đầu và trải ngược đến vô cùng, điều giống như thế cũng áp dụng cho chúng sinh. Sự sáng thế của tạo hóa vì thế không thể đứng vững.

Bây giờ hãy đề chúng ta lưu tâm đến một hiện tượng đặc thù, thí dụ một sông băng (glacier): nó thật sự có sự bắt đầu. Nó được tạo ra như thế nào? Thế giới bên ngoài xuất hiện như một kết quả của những hành vi của chúng sinh sử dụng thế giới này. Những hành vi này, hay nghiệp báo, lần lượt sinh khởi trong những khuynh hướng và động cơ của những chúng sinh ấy, những kẻ chưa nắm lấy được sự kiểm soát tâm thức của chính họ.

“Đấng tạo hóa của thế giới”, một cách căn bản, là tâm thức. Trong kinh điển, tâm thức được diễn tả như một tác nhân. Trong ấy nói rằng, tâm thức không có sự khởi đầu, nhưng chúng ta phải phân biệt ở đây giữa tâm thức thô và tâm thức vi tế. Nhiều tâm thức thô xuất hiện phụ thuộc trên những tập họp uẩn vật lý, của thân thể. Đây là bằng chứng khi chúng ta lưu tâm đến những thần kinh khác biệt và chức năng của não bộ, nhưng chỉ vì những điều kiện vật lý được thấy không có nghĩa là điều này đủ để sản sinh một nhận thức. Nhằm để cho một nhận thức là điều sẽ có năng lực để phản chiếu và biết một đối tượng sinh khởi, nó phải có một nguyên nhân có cùng thể chấtNguyên nhân có cùng thể chất nền tảng, của cùng vật chất như kết quả của nó, trong trường hợp này sẽ là tâm thức vi tế. Đấy là tâm thức giống nhau này hay tâm vi tế mà chính nó sẽ thâm nhập những tế bào của cha mẹ tại thời khắc thụ thai. Tâm vi tếthể không có sự bắt đầu. Nếu nó có một sự bắt đầu, tâm thức sẽ phải được sinh ra với điều gì đấy không phải là tâm thức. Theo mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra), người ta phải ngược về những hạt không gian (vi trần) để tìm ra những nguyên nhân căn bản cùng thể chất cua thế giới vật lý ngoại tại cũng như của thân thể chúng sinh.

Vũ trụ học Phật Giáo thiết lập chu trình của vũ trụ trong cung cách sau đây: đầu tiên có một thời điểm cấu tạo (thành), rồi có thời gianvũ trụ tồn tại (trụ), rồi một thời gian khác mà nó bị phá hủy (hoại), theo sau bởi một thời điểm của trống rỗng (không) trước khi cấu tạo một vũ trụ mới. Suốt thời gian của sự trỗng rỗng này, hạt không gian tồn tại, và từ những hạt không gian này một vũ trụ mới sẽ được hình thành. Chính trong những hạt không gian này chúng ta thấy nguyên nhân nền tảng cùng thể chất của toàn thể thế giới vật lý. Nếu chúng ta muốn diễn tả cấu tạo của vũ trụthân thể vật lý của con người, tất cả chúng ta cần làm là phân tích và thấu hiểu cung cách mà trong ấy khả năng tự nhiên của của những hóa chất khác nhau và những yếu tố khác cấu thành vũ trụ ấy đã có thể tạo hình từ những hạt không gian này. Trên căn bản khả năng đặc thù của những hạt này mà cấu trúc của vũ trụ này và của thân thể con người hiện diện trong ấy đã xảy ra. Nhưng từ thời khắc mà những yếu tố tạo thành thế giới bắt đầu làm rõ lên những kinh nghiệm khác nhau của khổ đau và hạnh phúc trong những chúng sinh, chúng ta phải giới thiệu khái niệm nghiệp báo – đấy là, những hành vi tích cựctiêu cực đã diễn ra và tích tập trong quá khứ. Thật khó để mà quyết đoán nơi nào mà những biểu hiện tự nhiên khả năng của những yếu tố vật lý chấm dứttác động của nghiệp báo bắt đầu – nói cách khác, kết quả những hành vi quá khứ của chúng ta – Nếu chúng ta tự hỏi mối liên hệ gì có thể có giữa nghiệp báo và môi trường ngoại tại này được hình thành bởi những định luật tự nhiên, thì đấy là lúc để giải thích nghiệp báo là gì.

Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần của là ý chí hay chủ tâm (ý). Cũng hiện hữu những nghiệp báo thân thể (thân) và lời nói (khẩu). Để thấu hiểu mối liên hệ giữa những nghiệp báo thân, miệng và ý này cùng thế giới vật chất, chúng ta phải liên hệ đến mật điển tantra. Mật điển Thời Luân đặc biệt giải thích rằng, trong thân thể chúng ta có thể được tìm thấy tại những mức độ thô, vi tế, và cực kỳ vi tế, năm yếu tố tạo nên vật chất của thế giới ngoại tại. Vì thế, trong phạm vi này, tôi tin rằng, chúng ta phải hình dung ra sự nối kết giữa nghiệp báo thân, miệng và ý cùng những yếu tố ngoại tại

The material on this page has been collected from the recent book, "Beyond Dogma: The Challenge of the Modern World", (c) 1996 North Atlantic Books, translated by Alison Anderson and Marianne Dresser from talks given during His Holiness's visit to France end 1993. 
E-MAIL: All enquiries, comments and suggestions welcome.

Philosophical questions on Creation
http://hhdl.dharmakara.net/hhdlquotes22.html
Ẩn Tâm Lộ ngày 12/05/2011

 


[1] Sự ngộ đạo, tu đạochứng đạo của mỗi cá nhân.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18372)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16702)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13286)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12756)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13609)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11775)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14309)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17814)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22680)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13486)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15585)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16133)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11403)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15737)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13187)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21994)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16203)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19174)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24877)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17721)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17119)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18638)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19079)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18888)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14419)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23138)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28582)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15216)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16496)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143650)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16372)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17442)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47417)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39153)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15811)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23176)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16765)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14306)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17248)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14371)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16929)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27999)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50212)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38512)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28557)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52212)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35847)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32899)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50804)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63726)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49717)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57034)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47541)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38458)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36588)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32230)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46697)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant