Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 14 - An lạc hạnh

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9160)
Phẩm 14 - An lạc hạnh

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 14: AN-LẠC-HẠNH

Bấy giờ, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này làm việc khó có là phát nguyện hộ trì, đọc nói kinh Pháp Hoa trong đời ác trược về sau. Thế Tôn! Làm thế nào mà các vị Bồ-tát này nói được kinh Pháp Hoa trong đời ác trược? Phật bảo Văn Thù: Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát, ở đời ác trược, muốn nói kinh này thì nên an trú vào 4 pháp sau đây:

1. Hành Xứ: Bồ-tát hành xứ là đứng vững trên đất nhẫn nhục, diệu hoà thuận thảo mà không nóng nảy, tâm cũng chẳng sợ sệt, lại ở trong muôn vật mà lòng không xao xuyến, xem muôn vật trống không như “thật tướng”, không nghĩ ngợi gì mà cũng không phân biệt.

2. Thân Cận Xứ: Bồ-tát không gần gũi:

- Hạng người quyền thế ( vua, con vua, quan lớn, quan nhỏ)

- Hạng người tu theo ngoạ đạo ( Phạm-chí, Ni-kiền-tử…)

- Hạng văn nhân, thi sĩ của thế tục

- Các phái Lộ-già-da-đà, Nghịch-lộ già-da-đà.

- Hạng người chơi hung, lấy sự đâm chém, đánh đá làm thích.

- Bọn Na-la quen chơi với sự tà thuật biến hoá.

- Bọn Chiên-đà-la.

- Hạng người làm sai giới luật như nuôi heo, dê, gà, chó, đi săn, chài lưới

Những người trong các giới ấy, nếu có lúc họ đến với mình, thì Bồ-tát phải vì họ mà giảng dạy cho họ nghe, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì

 Cũng không nên làm thân với những người cầu được làm Thanh Văn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cũng không nên hỏi chuyện họ. Dầu ở trong phòng, dầu lúc đang đi kinh hành, dầu lúc ở giảng đường, bất luận ở đâu, không nên cùng họ đứng dừng một chỗ. Nếu gặp lúc họ đến với mình thì tuỳ nghithuyết pháp, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.

 Văn Thù Sư Lợi - Bồ-tát lại còn không nên ngó thân người nữ mà sanh lòng ham muốn rồi nói pháp cho họ nghe, cũng đừng ưa thấy nữ nhân. Khi vào nhà người, đừng nói chuyện với trẻ gái nhỏ, con gái lớn và đàn bà goá. Cũng không nên gần những người “bất nam”. Đừng một mình vào nhà người. Nếu có duyên cớ cần phải vào nhà người một mình, thì phải giữ một tâm niệm Phật.

 Khi nói Pháp cho đàn bà, con gái nghe, đừng cười hở răng, đừng bày hông, ngực. Thậm chí đối với người vì pháp mà đến, cũng không nên gần gũi thân mật với họ, hà huống là đối với những người đến vì chuyện khác.

 Không nên thích nuôi những đệ tử ít tuổi, những sa-di trẻ con. Cũng không nên ưa dùng chúng một thẩy, mà nên ưa người ngồi thiền ở chỗ vắng lặng, sửa nắm tâm mình.

 Đó là “thân cận xứ” thứ nhất của Bồ-tát

 Lại nữa, Bồ-tát phải thấy muôn vật đều “không” như “ thật tướng” không điên đảo, không động, không thối, như hư không, thấy muôn vật không có thực tánh, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, vô danh, vô tướng, thực không có gì cả, vô lượng vô biên, vô ngại, vô chướng: thấy những danh từ lời nói dùng để chỉ vật này sự nọ, đều là trái với chân lý (ngữ ngôn đoạ đoạn), chỉ vì cái nguyên nhân đảo điên nên mới thế này thế nọ. Phải vui xét cái tướng của vạn vật là như thế.

 Đó là “ Thân cận xứ” thứ nhì của bồ tát

3. An Lạc Hạnh: Phật nói tiếp: Sau Như Lai diệt độ, trong đời mạt pháp muốn nói kinh nầy, Bồ-tát phải ở yên trong “An lạc hạnh”. Nghĩa là, khi nói cũng như khi đọc kinh này, chẳng nên vừa nói đến sự sai quấy của người và của kinh điển, cũng chẳng nên có lòng khinh rẻ, kiêu ngạo đối với các Pháp sư, chẳng nên nói đến sự tốt xấu, hay dở của người khác, đối với hành Thanh Văn, chẳng nên kêu đích danh mà vạch sự sai lầm, gàn dở của họ, cũng không nên kêu đích danh mà khen tặng cái hay của họ, lại cũng không sanh tâm thù hiềm. Khéo sửa lòng cho được an lạc như vậy thì không làm nghịch lý người nghe. Còn có ai vấn nạn thì đừng giải đáp bằng pháp Tiểu Thừa mà bằng pháp Đại Thừa, để cho người hỏi được Chánh Giác.

Bồ Tát muốn thuyết pháp phải giữ lòng an vui, trong sạch, thân thể phải tắm rửa cho sạch, mặc y mới, nói tóm là trong ngoài phải thanh tịnh, nhiên hậu mới lên ngồi pháp toà, tùy lời hỏi của người mà giảng. Đối với người vì Đạo thì đem diệu nghĩa ra mà dạy, mặt mày hoà nhã, đối với người vấn nạn, thì tùy nghĩa mà đáp, khi thì dùng nhân duyên, khi thì dùng thí dụ mà diễn mà giải rạch ròi, để lần hồi dắt dẫn họ vào đường sáng (Phật Đạo). Tự mình, phải trừ mọi ý niệm ỷ lại, mọi tư tưởng lười biếng, xa lìa mọi lo nghĩ, buồn rầu, mở rộng lòng từ, ngày đêm nói pháp để mở mắt cho chúng sanh mà không bao giờ mong cầu sự cúng dường, chỉ một lòng tưởng nhớ đến việc lấy pháp làm nhân duyên để thành Phật đạo, khiến người nghe cũng cùng một tâm niệm.

Trong thời mạt pháp, Bồ tát nào thọ trì, đọc tụng kinh này thì không nên chứa chấp sự ganh ghét, tà-vạy, khinh khi người học Phật, không làm cho hạng tu hành chán nản, cũng không nên đem Đạo Pháp ra bàn chơi, tranh cãi. Phải:

- Đối với tất cả chúng sanh, khởi lòng đại bi.

- Đối với Chư Như Lai, sanh lòng kính trọng như Cha lành

- Đối với Bồ-tát, sanh lòng tôn kính như Thầy.

- Đối với mười phương Bồ-tát, sanh lòng cung kính cúng dường.

Thực hiện đầy đủ pháp “ an lạc” thứ ba này, thì khi thuyết kinh, không làm cho người nghe hoang mang, được người cùng theo mình mà đọc tụng, còn đại chúng sẽ tới nghe lãnh lời kinh, lãnh rồi nắm giữ, giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết rồi sẽ chép và khiến ngừơi cùng chép.

4. Pháp Đại Bi Tâm

Lại nữa này Văn Thù ! Trong đời mạt pháp, ai là người muốn nắm giữ Kinh Pháp Hoa, phải sanh đại bi tâm đối với hàng xuất giatại gia. Đối với người chẳng phải là Bồ-tát (chưa tu hạnh vị tha), cũng phát đại bi tâm mà nghĩ như vẩy:

Như Lai phương tiện tuỳ nghi thuyết pháp, mà họ lại chẳng nghe, chẳng biết, chẳng tỉnh, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng giữ, thật là bất lợi vô cùng. Ngày nào ta được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sẽ dùng thần lực trí lực mà dắt dẫn họ vào ở yên trong Đạo Pháp.

Đó là pháp “ An Lạc” thứ tư.

Như Lai diệt độ rồi, Bồ-tát nào thành tựu được pháp thứ tư này thì khi thuyết Kinh Pháp Hoa, không bao giờ có sự sai lầm, mất mát. Người thế gian từ vua tới dân, sẽ cung kính cúng dường, trong hư không Chư Thiên sẽ luôn luôn hộ vệ cho. Tại sao thế? Vì kinh nầy được tất cả chư Phật ba đời bảo hộ. Này Văn Thù, trong vô lượng nước, nghe được tên kinh nầy còn chưa có, hà huống được thấy, được thọ trì, đọc tụng. Thí như nhà vua dẹp giặc xong, muốn thưởng công tướng sĩ, có thể cấp cho đất cát, y phục, ngọc ngà, châu báu, xe ngựa, nô tỳ, nhưng không bao giờ cho viên ngọc vô giá trên mão của vua. Như Lai cũng thế. Nhờ sức mạnh của thiền địnhtrí tuệ, Như Lai làm vua “ nước Pháp”, thống ngự ba cõi. Vì ma vương không hàng phục nên Như Lai mới dùng Hiền Thánh làm tướng để đánh ma vương. Đối với các bậc hữu công trong trận chiến này, Pháp vương Như Lai ban cho tiền của thiền định, giải thoát, vô lậu, thành quách niết bàn, tạm nói là dịch độ, để dẩn dắt tâm họ, khiến mọi người hoan hỷ nhưng chưa vì họ mà nói Kinh Pháp Hoa. Nhưng khi binh sĩ lập được công to, nhà vua sẽ cho viên ngọc vô giá. Như Lai cũng thế, thấy đội quân Hiền Thánh đã lập được đại công chiến thắng ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, đã diệt ba độc, ra khỏi ba cõi phá lưới ma, nên ban cho Kinh Pháp Hoa là lời thuyết cao cả nhất của Như Lai.
 
 

THÂM NGHĨA

An Lạc Hạnhviệc làm đem lại sự an vui. Đạo Phật dạy tu hành nhằm đem lại cho mọi người sự an vui trong cuộc sống. Chớ Niết Bàn không phải là một “ cảnh giới” xa xăm nào khác.

Ở phẩm kinh nầy, Phật dạy cho các Bồ-tát, cho những ai phát tâm nắm giữ, duy trì, truyền bá, giảng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa những phương cách đem lại cho mình cho người nghe đều được sự “ an lạc”

Để cho sự thọ trì truyền bá giảng nói được trong sáng, cảm thông sâu sắc giữa người nói và người nghe, một Pháp sư Pháp Hoa cần lưu tâm bốn điểm. Thực hịên bốn điều này không sai phạm thì hành giả Pháp Hoa có được sự lợi ích “ an lạc” trọn vẹn. Bốn điều đó là:

· Hành Xứ

· Thân Cận Xứ

· An Lạc Hạnh

· Phát Đại Từ Bi Tâm

1. Hành Xứ là những việc làm hằng ngày trong cuộc sống. Trong cuộc sống Bồ-tát thường vận dụng trí tuệ, tư duy, quán chiếu vạn Pháp trước mắt, để thể nhập “ thật tướng” của các Pháp là “ vô tướng”. Đối với nền giáo lý liễu nghĩa thượng thừa thậm thâm, Bồ-tát tu học, thọ trì, truyền bá không hề nhàm mõi, không dấy niệm kinh nghi, khéo nhẫn nhục nhu hoà, không chao đảo thối thất trước nghịch cảnh, không nóng vội trước khó khăn. Bồ-tát vận dụng căn bản trí quán sát vạn pháp qua cái nhìn trực giác “ vô phân biệt”, ung đúc thành thứ “ Tri Kiến Vô Kiến”, xa lìa tánh “ biến kế chấp” thường tình, vượt ra ý thức phân biệtTri Kiến Lập Tri”.

2. Thân Cận Xứ là tiêu chuẩn qui ước của Bồ-tát, của Pháp sư Pháp Hoa trên con đường tự độ hoá tha. Thân cận xứ có hai: Một là thân cận. Hai là không nên thân cận.

Nên thân cận là chỗ mà Bồ-tát có thể thân cận và những việc mà Bồ-tát nên làm. Nói rõ ra là Bồ-tát nên luôn luôn quán niệm tư duy: “Nhất thiết Pháp không”. “Nhất thiết Pháp như thật tướng”. Bồ-tát nhận thức rằng: tất cả pháp từ xưa đến nay rời ngoài ngôn ngữ, vượt ra văn tự, tuyệt đường nghĩ ngợi so lường, rốt ráo bình đẳng, thanh tịnh bản nhiên.

“…Chưa từng có một pháp

Không do nhân duyên sanh

Thế nên tất cả pháp

Không pháp nào chẳng không”

Bồ-tát thường quán sát vạn pháp với cái tánh Như Thị của chính nó. Rằng: “ Tướng của nó Như Vậy. Tánh của nó Như Vậy. Thể của nó Như Vậy. Tác của nó Như Vậy. Lực của nó Như Vậy. Nhơn của nó Như Vậy. Duyên của nó Như Vậy. Quả của nó Như Vậy. Báo của nó Như Vậy. Và trước sau, từ đầu đến cuối nó vốn Như Vậy”.

Đó là những chỗ “ Nên thân cận” của Bồ-tát:

Không nên thân cận là những chỗ, những người và những việc mà Bồ-tát phải tránh:

- Không nên thân cận người có quyền thế như: vua, con vua, các quan lớn , nhỏ.

- Không nên thân cận với những bọn Phạm-chí, hảo hán, bọn Ni-kiều-tử, chủ trương loã hình.

- Không nên thân cận với hàng văn nhân, thi sĩ không lành mạnh

- Không nên thân cận với hạng ngoại đạo, “ thuận thế” và “ nghịch thế”

- Không nên thân cận những người tà thuật, biến hoá huyễn hoặc.

- Không nên thân cận với những người chỉ mong cầu quả vị Thanh Văn (Tiểu căn, tiểu trí, tự độ)

- Không nên thân cận với hàng quả nữ, xử nữ, và tiểu nữ

- Không nên thân cận với bọn trẻ nít và sa-di ít tuổi.

Trường hợp không đặng đừng phải tiếp xúc thân cận với những hạng người trên, vì giảng nói kinh pháp cho họ nghe, lòng đừng hy vọng cậy trông nơi họ một điều gì.

3. An Lạc Hạnh: Bồ-tát trì Kinh Pháp Hoa phải giữ tâm khinh an, thanh thoát, hoan hỉ trong lúc giảng nói, định tĩnh khi thọ trì đọc tụng và tự cảnh tỉnh!

- Không nói lỗi lầm của người khác và của kinh điển

- Không khinh khi ngạo mạn với những người tu hành khác

- Không sanh tâm oán thù, hiềm khích với mọi người

- Không chê bai hạnh tu của hàng Thanh Văn, Duyên Giác khiến cho mất niềm tin trên đường tiến lên chánh đạo.

- Nếu có người vấn nạn không giải đáp bằng pháp Tiểu thừa, phải hướng dẫn họ pháp Đại thừa, chỉ cho họ đi vào con đườngNhất Thiết Chủng Trí”. Đối với tất cả chúng sanh khởi lòng đại bi. Với chư Như Lai sanh lòng kính trọng như đấng cha lành. Với Bồ-tát tôn kính như Thầy. Nên khởi lòng cung kính cúng dường Bồ-tát trong mười phương.

Bồ-tát thực hiện đầy đủ pháp “ An Lạc” thứ ba nầy, khi thuyết giảng kinh người nghe không ngờ vực, hoang mang. Đại chúng sẽ hoan hỷ tiếp thu lời kinh ý Phật, lãnh hội nắm giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết rồi sẽ biên chép và khuyến khích nhiều người cùng thọ trì, đọc tụng, biên chép để lưu bố rộng nhiều.

4. Phát khởi tâm Đại Từ Bi:Bồ-tát “trì” kinh Pháp Hoa ở vào thời mạt pháp, đối với hạng xuất gia hay tại gia nên phát khởi lòng đại từ. Đối với hạng người không phải Bồ-tát, nên sanh lòng đại bi. Bồ-tát nên nghĩ rằng: “Như Lai vô số phương tiện tuỳ nghi nói pháp, thế mà họ không biết, không nghe, không tỉnh ngộ, không hiểu, không tin và không học hỏi thật là mất lợi rất nhiều. Dù vậy, ngày thành Phật, ta sẽ vận dụng sức trí tuệ dẫn dắt họ vào an trụ nơi pháp Đại thừa của Kinh Đại Thừa Dịêu Pháp Liên Hoa.

Đây là pháp “ An Lạc” thứ tư của Bồ-tát.

Sau Như Lai diệt độ, Bồ-tát thành tựu viên mãnAn Lạc Hạnh” thì lúc thuyết kinh sẽ không phạm phải sai lầm, người nghe sẽ đẹp lòngcung kính, chư thiên hoan hỉ hộ vệ cho.

Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, ở vô lượng cõi nước chưa hề nghe được tên kinh, còn nói chi đến việc thấy kinh và đọc tụng thọ trìVí như vị Đại quốc vương, sai binh tướng xuất quân dẹp giặc, dẹp giặc xong, để thưởng công cho tướng sĩ ba quân nhà vua có thể cấp cho nhà cửa, ruộng vườn, y phục, vàng bạc, ngựa xe… nhưng không bao giờ cho viên minh châu trên mão của nhà vua. Cho đến khi tướng sĩ lập được chiến công vô cùng hiển hách, nhà vua lúc bấy giờ mới đem viên minh châu trên mão của mình mà ban tặng. Đấy là một sự kiện cả hoàng tộc và thần dân kinh dị sững sờ. Như Lai cũng vậy. Nhờ sức mạnh thiền địnhtrí tuệ, Như Lai làm “vua nước pháp, điều phụcchế ngự ba cõihàng phục ma quân, Như Lai dùng Hiền, Thánh làm tướng binh để đánh dẹp. Với các bậc hữu công trong trận chiến, Pháp Vương Như Lai ban cho của báu: Thiền định, giải thoát, căn, lực, vô-lậu pháp và cả thành đô Niết Bàn Với ngần ấy “Thánh Tài” mọi người rất bằng lòng và hoan hỉ, Như Lai chưa vì họ mà nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên HoaCho đến khi thấy đội quân Hiền, Thánh đã lập được công to, oanh liệt, quét sạch bọn ma quân ngủ ấm, ma phiền não, ma thiên và ma tử, triệt tiêu tam độc, ra khỏi ba cõi. Bấy giờ Như Lai vui mừng, mới đem Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa ra mà trao dạy.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là tạng bí yếu của Như Lai. Đối với các kinh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là “ thừa tối thượng”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31275)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18569)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25151)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23783)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28951)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20876)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31457)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25554)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29730)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22532)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25730)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23296)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23734)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23358)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22461)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24321)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41116)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19007)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20503)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27734)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38134)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24509)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22724)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26556)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23620)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21101)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30851)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21070)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38798)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20556)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20609)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27066)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28088)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37165)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55178)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37983)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14567)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10649)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant