Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 18 - Tùy hỉ công đức

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9165)
Phẩm 18 - Tùy hỉ công đức

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

Phẩm 18: TÙY-HỈ CÔNG-ĐỨC

Lúc bấy giờ Bồ-tát Di Lặc bạch Phật: “Thế Tôn ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh Pháp Hoa mà lòng vui đẹp (tuỳ hỉ) thì những người ấy đặng bao nhiêu phước đức?”

Phật bảo Bồ-tát Di Lặc: “ A-dật-đa! Sau Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng hạng người trí khác, nghe kinh này mà lòng vui đẹp, rồi từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại nơi chư Tăng ở, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc nơi thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng rẫy, đem điều đã nghe, tuỳ sức mà diễn thuyết cho cha mẹ, họ hàng, thiện hữu cùng nghe, rồi những người này nghe xong dạy cho người khác. Những người khác nghe xong, dạy cho những người khác nữa, như vậy cho tới người thứ năm mươi.

Này A-dật-đa ! Công đức nghe kinh vui đẹp của hàng thiện nam tử, nữ nhân thứ năm muơi đó sẽ được như lời ta sắp nói đây, ngươi hãy lắng nghe.

Nếu có người làm hạnh bố thí, ban cấp những thứ cần dùng ngọc ngà, châu báu, voi ngựa, xe cộ, cung điện, lầu gác cho vô lượng chúng sanh trong vô số thế giới, suốt một thời gian là 80 năm. Tài thí như vậy xong rồi, vị thí chủ ấy lại nghĩ đến việc đem Phật pháp ra mà dạy dỗ dìu dắt chúng sanh lúc ấy đã già suy, tuổi quá 80, tóc bạc mặt nhăn, không bao lâu sẽ chết. Vị thí chủ ấy liền nhóm chúng sanh giáo hoá, khiến chứng đặng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm hoặc A-la-hán. Ý ông nghĩ sao? Công đức của vị đại thí chủ đó có nhiều chăng?

Bồ-tát Di Lặc bạch Phật: “Thế Tôn! Công đức của người ấy nhiều vô lượng vô biên. Chỉ việc tài thí thôi đã là vô lượng rồi, hà huống còn pháp thí đến đặng quả A-la-hán”.

Phật bảo Bồ-tát Di Lặc: “Ta rành nói ngươi nghe nhé ! Công đức của vị thí chủ ấy không bằng một trong trăm ngàn muôn ức phần công đức của người thứ năm mươi nghe Kinh Pháp Hoa mà lòng vui đẹp.

Này A-dật-đa ! Người nghe kinh Pháp Hoa thứ 50 mà còn được công đức tuỳ hỉ vô lượng vô biên như thế, huống hồ hạng người nghe kinh lúc ban sơ ngay trong Pháp hội.

Này A-dật-đa ! Nếu có người vì lòng muốn nghe kinh nầy mà đến chùa, hoặc ngồi, hoặc đứng, dầu trong chốc lát để nghe nhận lời, người ấy có những công đức nhờ đó mà sẽ tái sanh trong cảnh giàu có rồi sau lại lên thiên cung.

Còn người nào, trong chỗ giảng kinh mà biết khuyên người đến sau ngồi nghe, hoặc chia chỗ ngồi thì người ấy, khi chuyển thân, đặng chỗ ngồi của Đế Thích, Phạm Vương hay Chuyển Luân Thánh Vương.

A-dật-đa ! Nếu lại có người giới thiệu và khuyến khích người khác nghe giảng kinh Pháp Hoa, và người được khuyên nhận lời đến nghe, dầu trong chốt lát, thì người giới thiệu và khuyến khích đặng công đức, khi chuyển thân, cùng sanh một nơi với hàng Bồ-tát, đầy đủ “tổng trì”, căn tánh bén nhạy, có trí tuệ, trăm ngàn muôn đời chẳng hề ngọng câm, miệng lưỡi không hôi thối, môi răng tốt đẹp, mặt mày đoan trang, mũi lớn cao thẳng.

A-dật-đa !Ngươi thử xem: khuyên một người đi nghe Pháp mà được công đức như thế, hà huống một lòng nghe, nói, đọc, tụng Kinh Pháp Hoa, lại trong đám đông vì người giải thíchtu hành đúng như lời nói trong kinh”.
 
 

THÂM NGHĨA

Khi thấy người khác làm một điều gì mà mình đồng ý vui mừng tán thán hỗ trợ, gọi đó là tuỳ hỉTuỳ hỉ cũng có thể là tuỳ hỉ thiện và cũng có thể là tuỳ hĩ ác. Về hành động thiện cũng như hành động ác, kinh điển thường chia: Hoặc tự-tác hoặc giáo-tha-tác, hoặc kiến-tác tuỳ hỉ, có nghĩa là hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy ai làm tuỳ hỉ tán thành. Tuỳ hỉ tác là gián tiếp giáo-tha-tác; giáo-tha-tác là gián tiếp tự-tác. Thế nên tuỳ hỉ cũng có thể mắc tội lớn, nếu tuỳ hỉ với những điều ác, người ác. Tuỳ hỉ kinh điển Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là một tuỳ hỉ thiện, tuỳ hỉ với chân tâm, với Phật tri kiến mình, nên phước đức lớn lao, không thể dùng ngôn từ tán thán, dùng tỉ lệ so sánh được.

Vậy tuỳ hỉtùy hỉ những gì ở kinh Dịêu Pháp Liên Hoa?

Tuỳ hỉ rằng: Kinh Dịêu Pháp Liên HoaKinh Đại Thừa viên giáo liễu nghĩa. Ba đời chư Phật chỉ nói kinh Pháp Hoa trước giờ phút sắp nhập Niết Bàn để rồi thọ ký cho tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. (Phẩm Tựa thứ 1)

Tuỳ hỉ rằng: Chư Phật Như Lai ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên:

· Giới thiệu (Khai) tri kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh biết.

· Chỉ (Thị) tri kiến Phật của chúng sanh cho chúng sanh thấy.

· Hướng dẫn chúng sanh hiểu kỹ (Ngộ) về tri kiến Phật của mình

· Dạy cho chúng sanh sống bằng (Nhập) tri kiến Phật của mình vốn có. Vì vậy, kinh nói: “ Tất cả chúng sanh đã thành Phật” (Phẩm Phương Tiện thứ 2)

Tùy hỉ rằng: Giáo lý của ba đời chư Phật đều dạy cho chúng sanh pháp Nhất Thừa. Hễ tu hànhthành Phật. Thanh Văn, Duyên Giác thừa chỉ là xe dê, xe nai; Ông Trưởng Giả phương tiện nói đó thôi. (Phẩm Thí Dụ thứ 3)

Tùy hỉ rằng: Phật và chúng sanh cùng ở một nguyên quán: Như Lai viên giác diệu tâm; cũng như đứa con hoang cùng ông Trưởng giả vốn là cha con ruột, cùng ở trong cảnh gia đình một cự phú hào. Con vì bỏ cha, bỏ nhà đi hoang nên đói khổ lang thang lưu lạc. Ngày trở về nhận được cha, thì con hưởng trọn cái gia tài cự-phú-hào vô tận ấy. Chúng sanh không biết mình có Phật chất đành cơ cực sống với tâm trạng đau khổ của vô minh. Ngày tỉnh ngộ quay về sống bằng tri kiến Phật của mình thì Bồ-đề Niết Bànsự nghiệp chung mà tất cả chúng sanh có quyền thừa hưởng trọn. (Phẩm Tín Giải thứ 4)

Tuỳ hỉ rằng: Sự thật trước sau, Phật chỉ dạy cho tất cả đệ tử của mình về phát Đại Thừa. Nhưng tuỳ căn cơ chủng tánh, nghe ra có Tiểu, có Trung, có Đại khác nhau. Như một trận mưa tuôn chỉ có một vị đượm nhuần mát mẻ, thế mà cây cổ thụ, cây lựu, cây lê, cây lúa mạ tuỳ sức hấp thụ mà giống cây có to, có vừa, có bé không đồng. (Phẩm Dược Thảo Dụ thứ 5)

Tuỳ hỉ rằng: Ông Xá-lợi-phất là người đầu tiên trong hàng Thanh Văn được thọ ký thành Phật. Giờ đây ông Đại-ca-diếp, ông Tu-bồ-đề, ông Ca-diên-chiên, ông Mục-kiền-liên cũng được thọ ký thành Phật. Vì sự thọ ký không phải là sự thi ân riêng lẻ của Phật dành cho người đệ tử dễ thương nào. Cũng không phải là lời tiên tri may rủi hay ước lượng, dự đoán, phỏng chừng. Mà thọ-ký là nói lên một sự thật tất yếu tất nhiên vốn vậy của tất cả mọi người. Cho nên rồi đây 500 đại đệ tử cũng sẽ được thọ ký. Những người hữu học, vô học cũng được thọ ký. Nói thẳng ra, tất cả chúng sanh đều được thọ ký thành Phật với cái vốn liếng Phật tánh sẵn có của mình. (Phẩm Thọ Ký thứ 6, 8, 9)

Tuỳ hỉ rằng: Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoakinh giáo Bồ-tát pháp, Phật sở hộ niệm. Tu học Diệu Pháp Liên Hoa kinh, mới đi cuối con đường Phật, mới đến nơi Bảo-sở. Không tu học kinh Pháp Hoa, dù có được Niết Bàn nhưng đó là hoá thành, đó là quyền biến phương tiện của một đạo sư… (Phẩm Hoá Thành Dụ thứ 7)

Tuỳ hỉ rằng: Những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, và tuỳ hỉ kinh Diệu Pháp Liên Hoa đều được gọi là Pháp sư. Họ không phải là người thường, vì người thường không thể nghe, không thể chấp nhận nổi kinh nầy. Họ là những người được Phật thọthành Phật, được Như Lai lấy y mà trùm, lấy tay mà xoa đầu. Họ là sứ giả Như Lai. (Phẩm Pháp Sư thứ 10)

Tuỳ hỉ rằng: Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ, Đa Bảo Như Lai và Tháp là Phật phát thường trụ về mặt thời gian. Phân-thân Phật nhiều bất khả thuyết, bất khả thuyết vô lượng vô biên a-tăng-kỳ hằng hà sa của Thích Ca Mâu Ni Phật và cây báu… là Phật pháp thường trụ về mặt không gian đó… (Phẩm Hiện Bảo Tháp thứ 11)

Tuỳ hỉ rằng: Đề-bà-đạt-đa thuộc hạng “ Nhứt xiển đề” mà được thọ ký thành Phật, thì tất cả chúng sanh không phải “Nhứt xiển đề” thừa khả năng tu hành thành Phật. Long nữ thành được Phật thì tất cả người nữ thừa khả năng tu hành thành Phật. (Phẩm Đề-bà-đạt-đa thứ 12)

Tuỳ hỉ rằng: Trì kinh Pháp Hoa ở cõi Ta-bà có khó khăn nhưng có sức cố gắng, có khả năng, có phát tâm dũng mãnh vẫn làm được, như Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết đã phát nguyện trì. (Phẩm Trì thứ 13)

Tuỳ hỉ rằng: Hành xứ, thân cận xứ, an lạc hạnh, đại bi tâm là bốn điều kiện cần có để cho Pháp sư Pháp Hoa hoàn thành công hạnh tự lợi, lợi tha viên mãn. (Phẩm An Lạc Hạnh thứ 14)

Tuỳ hỉ rằng: Khả năng tu tập của mình là nhân tố quyết định thành công. Đừng hy vọng trong nhờ ở tha nhân nào khác. Nếu có sự giúp đỡ của tha nhân bằng tám lần thành công, thì sự cố gắng nổ lực của mình gấp 12 vạn lần hơn hảo ý của tha nhân cảm tình giúp đỡ. Phải phát triển nghị lực sẳn có của chính mình và sự thật , mỗi người đều có khả năng nghị lực đó. (Phẩm Bồ-tát Tùng Địa Dũng Xuất thứ 15)

Tuỳ hỉ rằng: Thọ Mệnh Như Lai vĩnh cửuthời gian vô tận, không gian vô cùng. Vì “Như Lai giả tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhơn ngôn: Như Lai nhược lai, nhược khứ, nhược toạ, nhược ngoạ, thị nhơn bất năng giải ngã sở thuyết nghĩa. Như Lai giả vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai”. (Phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16)

Tuỳ hỉ rằng: Hiểu kỹ, hiểu đúng, ý thú về Như Lai Thọ Lượng tức là hiểu kỹ, hiểu đúng về Phật tánh, về Như Lai Viên Giác Diệu Tâm của mình.

Phát hiện trong quặng có vàng, sẽ nấu lọc quặng để lấy vàng. Biết mìnhNhư Lai Viên Giác Diệu Tâm sẽ gạn lọc cặn bã vô minh để lấy Phật tánh. (Phẩm Phân Biệt Công Đức thứ 17)

Tuỳ hỉ rằng: Nghe Kinh Pháp Hoa mà sanh tâm vui mừng, tâm đắc là người không phải tầm thường. Nghe rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói và tuỳ hỉ, khuyến khích cho nhiều người cùng nghe, cùng tu học là Bồ-tát hạnh đã trưởng thành vượt bậc rồi. Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác với người nầy chẳng còn xa. Người nầy đang ngồi toà Bồ-đề dưới bóng cây đạo. (Phẩm Tuỳ Hỉ Công Đức thứ 18)

Tuỳ hỉ rằng: Kinh Pháp Hoakinh tối tôn tối thượng. Những ngừơi thọ trì, đọc học, biên chép, giảng nói, và vui mừng tâm đắc với Kinh Pháp Hoa sẽ được công to và phước đức rất nhiều. Tất cả đều được tôn vinh là “Pháp sư”.

Pháp sư Pháp Hoa là người có thể có được “ Lục căn thanh tịnh” mà không cần thay đổi, huỷ bỏ “ lục căn vốn có của cha mẹ sanh ra”.

“Lục căn thanh tịnh” thì “lục trần” “ lục thức” của Pháp sư Pháp Hoa cũng đều được thanh tịnh như vậy. (Phẩm Pháp Sư Công Đức thứ 19)

Tuỳ hỉ rằng: Câu nói của Bồ-tát Thường Bất Khinh: “Tôi không dám khinh các Ngài, rồi đây tất cả các Ngài đều sẽ làm Phật”. Câu nói đó là một âm vang sấm sét, réo gọi, thức tỉnh những ai còn mê mệt mơ hồ về Tri Kiến Phật và khả năng thành Phật của mình. Trong tất cả thứ ngạo nghễ, khinh khi, khinh khả năng thành Phật của mình là thiệt thòi lớn lao hơn hết. Chàng Cùng-Tử sở dĩ đói khổ lang thang chỉ vì “ khinh mình”, vì không nhận biết ở vạt áo mình có viên ngọc minh châu vô giá. Ngày phát hiện ra viên bảo châu là ngày mình trở thành cự phú nhất đời. (Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát thứ 20)

Tuỳ hỉ rằng: Phật chỉ là một con người. “ Thành Phật” là người đạt đến đỉnh cao vô thượng của trí tuệNhận thức bằng “ Phật tuệ” thì “ Pháp giới bất nhị”. Quán sát bằng “ Phật nhãn” thì “ Pháp giới nhất chân”.

Ngày thành Phật là ngày toàn thân con người trở thành một khối “ trí tuệ” sáng suốt vén tan hết bóng tối vô minh trong mười phương quốc độ. Kinh nói: “ Toàn thân Như Lai từng lỗ chân lông, phóng hào quang…” (Phẩm Như Lai Thần Lực thứ 21)

Tuỳ hỉ rằng: Giá trị Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ngang bằng với giá trị của quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Giữ gìn Kinh Pháp Hoagiữ gìn quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Truyền bá Kinh Pháp Hoa cho tất cả chúng sanh tức là truyền trao quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho chúng sanh vậy.

Kinh Pháp Hoa là nền giáo lý cô đọng của công trình tu tập trải qua trăm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ kiếp mà nên, tu học kinh Pháp Hoa tức là tu học về “ Nhất thiết trí”, “Vô sư trí”, “ Tự nhiên trí” và “Phật tuệ vô thượng”.

Là Bồ-tát , đệ tử Phật gần gũi, đọc học, biên chép, giảng nói và truyền bá Kinh Pháp Hoa là cách đền đáp thâm ân Phật cao quí nhất

“ Trong tất cả cung cách cúng dường, cúng dường “ Pháp” là ưu việt hơn hết” (Phẩm Chúc Lũy thứ 22)

Tuỳ hì rằng: Ví như người bệnh phải cầu thuốc để trị bệnh. Người tu tự coi mình là người đang mắc phải chứng bệnh vô minh. Muốn trị dứt chứng bệnh vô minh phải trãi qua quá trình điều trị bằng “thuốc Pháp”. “Vi-rút chấp ngã” và “chấp pháp” là loại “vi-rút” cực kỳ nguy hiểm. Từ đó sanh nhiều biến chứng: “tam độc”, “ngũ cái”, “thập triền” khiến cho chúng sanh đắm chìm lặn hụp trong ái hà, khổ hải, ưu bi..

Muốn được giác ngộgiải thoát phải bồi dưỡng thiện pháp lâu dài cũng như phải hoá giải diệt trừ ác pháp lâu dàicuối cùng phải tiêu hoá chúng với thời gian lâu dài cho đến khi nào cái chất “ngã tướng”, “nhân tướng”… tàn rụi hết mới thôi… (Phẩm Dược Vưong Bồ-tát Bổn Sự thứ 23)

Tuỳ hỉ rằng: Hễ sử dụng Phật tuệ thì “ Pháp giới bất nhị” cho nên thế giới “Nhất Thiết Tịnh Quang trang nghiêm” của đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí hiệnra không xa.

Diệu Âm Bồ-tát là “nhân cách hoá” cái “âm thanh mầu nhiệm của cõi lòng thanh tịnh.” Do vậy, khi cõi lòng thanh tịnh thì “cõi đất tâm” đẹp đẽ trang nghiêm thanh tịnh.

Diệu Âm Bồ-tát đến cõi Ta-bà thì cõi Ta-bà đẹp đẽ trang nghiêm thanh tịnh. Diệm Âm Bồ-tát trở về bản độ thì cõi Ta-bà trở lại trạng thái uế độ như cũ. (Phẩm Diệm Âm Bồ Tát Vãng Lai thứ 24)

Tuỳ hỉ rằng:
 

Diệu Âm, Quán Thế Âm

Phạm Âm, Hải triều âm

Thắng bỉ thế gian âm

Thị cố tu thường niệm

Niệm niệm vật sanh nghi

Quán Thế Âm tịnh thánh
 
 

Có nghĩa là Diệu Âm Quán Thế Âm. Quán Thế Âm tức Diệu Âm, chỉ khác ở chỗ Diệu Âm có lúc đi đến, có lúc trở về còn Quán Thế Âm thì giữ lại không đến không đi. Do vậy, niệm Quán Thế Âm liên tục là cách tu ưu việt hơn hết. Cho nên “Quán Thế Âm là Thánh của sự thanh tịnh”.

“… Phật xuất Ta-bà giới

Thử phương chân giáo thể

Thanh tịnh tại âm văn

Dục thử tam-ma-đề 

Thực tùng văn trung nhập”

(Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn thứ 25)
 
 

Tuỳ hỉ rằng: Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa là tạng bí yếu của chư Phật. Tu học theo kinh Pháp Hoatu học viên giáo liểu nghĩa thượng thừa. Sống theo Kinh Pháp Hoa là sống theo chân lý, sống đúng chân lý. Vì vậy mà các hàng Bồ-tát, Thiên Vương, Ma Vương, phát nguyện đem hết khả năng mình để hộ trì kinh , bảo hộ cho những ai thọ trì đọc tụng, truyền bá kinh bằng những “Đà-la-ni” mà họ có.

“Đà-la-ni” là một thứ ngữ ngôn phủ định ngữ ngôn. Thứ ngữ ngôn “ngôn ngữ đạo đoạn”. Thứ ngữ ngôn nhằm đưa hành giả Pháp Hoa lên đỉnh cao “ tâm hành xứ diệt”. (Phẩm Đà-la-ni thứ 26)
 
 

Tuỳ hỉ rằng: Bồ-đề tự tánh, ai cũng có thể trở về để thành Phật, nhưng việc thành Phật không mong cầu nóng vội, mà phải đoạn trừ phiền não có quá trình, chứng nhập “ pháp thân” từng phần, sự giác ngộ giải thoát tiệm tăng từng mức độ. Vua Diệu Trang Nghiêm cách đây vô lượng kiếp, nay là Hoa Đức Bồ-tát. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, xưa kia nay là Bồ-tát Dược VươngDược Thượng

Ở phẩm “Tựa” thứ nhất, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh vốn là một nhà vua có tám người con. Nhà vua xuất gia tu thành Phật, sau đó độ cho tám người con ở trong Phật pháp làm nhiều phật sự.

Ở phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự” thứ 27, Tịnh TạngTịnh Nhãn hai người con xuất gia hành đạo chứng đắc tự tại thần thông rồi độ cho vua cha xuất gia tu hành thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Cải tạo A-lạy-da trước, chuyển hoá tiền thất thức sau hoặc chuyển hoá tiền thất thức trước, cải tạo A-lạy-da sau. Cách tu nào cũng đem lại kết quả được, tuỳ căn tánh của mỗi người. (Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự thứ 27)
 
 

Tuỳ hỉ rằng: Thọ trì, đọc, học Kinh Pháp Hoabồi dưỡng cái trí “năng tri”. Đem lại cho con người sự giải thoát, giác ngộ cốt yếu là ở nơi cái đức “ năng hành”.

Bồ-tát Đại Trí Văn Thù tiêu biểu cho cái trí “ năng tri” xuất hiện ở phẩm thứ nhất để khai đạo giáo nghĩa Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa.

Bồ-tát Đại Hạnh Phổ Hiền cuối cùng mới xuất hiện để động viên tinh thần “hành giả Pháp Hoa” với cái nhan đề “Phổ Hiền khuyến phát” thứ 28.

Điều đó nói lên: Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa không phải là thứ kinh để cho mọi người đọc tụng được phước, hợp nhất mới đem lại kết quả lớn lao.

Tóm lại, Tuỳ Hỉ Kinh Pháp Hoa có nghĩa là vui mừng chấp nhận nội dung, tư tưởng toàn bộ giáo lý của hệ tư tưởng Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa để làm kim chỉ nam cho tiến trình tu tập của mình và trọng yếu đạt đến thành công là : “Tri hành hợp nhất”. (Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Pháp thứ 28).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27497)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26549)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29306)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29812)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29244)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21561)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29169)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23646)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31831)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39609)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19365)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24810)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21748)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29124)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23508)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35306)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31332)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26224)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31230)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22921)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30039)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21571)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20238)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20749)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28788)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34725)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22539)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21377)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19329)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29521)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35122)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28815)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37891)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21328)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27025)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24070)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20847)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34317)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22466)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25120)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant