Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương tám

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9174)
Chương tám

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG TÁM

42.-ÂM:

 Tu Bồ Đề: Ư ý vân hà? - Nhược nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo ([106]) dĩ dụng bố thí, thị nhơn sở đắc phước đức ninh vi đa phủ?

NGHĨA:

 Này Tu Bồ Đề: Ý ông thế nào? - Bằng có người dùng bảy báu chất đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, đem ra mà bố thí, người ấy có đặng phước đức nhiều chăng?

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Tam thiên đại thiên thế giới  là chỗ có ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt đây, gọi là một tiểu thế giới, nơi trung giannúi Tu Di, mặt nhựt mặt nguyệt thì vận hành chung quanh núi ấy, nên bốn phía chia ra làm bốn châu thiên hạ là: Phương Nam: Diêm Phù Đề, phương Đông: Phất Bà Đề; phương Tây: Cù Và Ni; và phương Bắc : Uất Đan Việt.

Còn đường vận hành của mặt nhựt mặt nguyệt, thì từ phân nửa núi trở xuống mà thôi, cho nên sự cao của núi ấy, thì phân nửa núi sắp lên, cao khỏi trên đường vận hành của mặt nhựt mặt nguyệt; trên ấy lại chia ra bốn phương mỗi phương có tám cõi trời; và ở trung gian một cõi, cộng là ba mươi ba cõi trời; gọi là Tam thập Tam thiên. Tiếng Phạm kêu là cõi Trời Đao Lợi (Đao Lợi Thiên).

Bốn châu thiên hạ mà có mặt nhựt mặt nguyệt vận hành đó là một cõi  tiểu thế giới, một ngàn  tiểu thế giới  như vậy là một  tiểu thiên, một ngàn tiểu thiên  là một  trung thiên, một ngàn  trung thiên  là  đại thiên. Bởi ba lần nói: "thiên" cho nên nói: "Tam thiên đại thiên", chớ kỳ thiệt có một đại thiên  mà thôi; như vậy đó mới kêu là  "Đại thế giới" (ba mươi ba ngàn triệu: 33.000.000.000 thế giới).

Ninh vi đa phủ: Chữ  ninh  là của Thầy phiên dịch dùng làm chữ trợ, chẳng cần để ý khảo nghĩa làm chi.

Lục Tổ  giải: Bài này là Như Lai hỏi cái ý đó thể nào? Bố thícúng dường  là phước đức ở ngoài thân, thọ trì  kinh điển là phước ở trong thân, cũng gọi là: Công đức. Thân phước là ăn mặc, tánh phước là  trí huệ, tuy có ăn mặc mà tánh ngu mê, là kiếp trước bố thí cúng dường  mà không  thọ trì  kinh điển. Còn thông minh trí huệ lại nghèo hèn thiếu ăn thiếu mặc, là kiếp trước trì kinh nghe pháp mà không  bố thí cúng dường.

Tu phước đức bề ngoài tức là sự ăn mặc, tu phước đức bề trong tức là Trí huệ. Tiền tài là báu của thế, Bát Nhã  là báu trong tâm; trong ngoài song tu mới là toàn đức.

Ấy là xưng tụng "Công đức trì kinh hơn phước đức bố thí ".

Sớ Sao giải: Thất bảo  là kim, ngân, lưu ly, san hô, mã não, pha ly, xích chơn châu.

Ý Phật muốn rõ  vô vi, nên trước đem phước  hữu lậu  mà hỏi ông  Thiện Hiện : "Dùng bảy báu đầy cả Tam thiên thế giới đem ra bố thí, đặng phước đức nhiều chăng?". Bài sau ông Tu Bồ Đề đáp lại.

43.-ÂM:

 Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? - Thị phước đức, tức phi phước đức tánh, thị cố, Như Lai thuyết phước đức đa".

NGHĨA:

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Bởi cớ sao? - Bởi phước đức ấy, chẳng phải phước đức tánh, cho nên Như Lai nói phước đức nhiều".

 

Giải : Tạ Linh Vận giải: Phước đức vốn không có tánh bởi tùy  nhân duyên  mới có nhiều, nhiều thì dễ chấp trước nên phải bỏ đi.

Lục Tổ giải: Dùng bảy báu đầy Tam thiên thế giới bố thí, đặng phước tuy nhiều, nhưng không chút chi lợi ích cho tánh cả. Nương theo "Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa" tu hành, khiến cho tự tánh chẳng đọa vào  quả báo  mới gọi là công đức tánh.

Lòng có "năng sở" là chẳng phải công đức tánh; dứt lòng "năng sở"  mới gọi là công đức tánh; tuân theo giáo pháp của Phật, làm theo hạnh của Phật, mới gọi công đức tánh; không tuân theo giáo pháp của Phật, không làm theo hạnh của Phật; là chẳng phải Công đức tánh.

Tăng Nhược Nột giải: Ông Không Sanh nói bảy báu đầy cả đại thiên đó, hễ báu nhiều thì phước nhiều, cho nên nói: "Rất nhiều".

Thị phước đức  là "sự phước"  -  Tức phi phước đức tánh  là chẳng phải phước đức của tánh  Bát Nhã; mà đã chẳng phải "lý phước" thì chẳng đến quả Bồ đề - Thị cố Như Lai thuyết phước đức đa  là sự phước của thế gian, cho nên nói "nhiều".

Tăng Tử Vinh giải: Bố thí  mà trụ tướng, chỉ đặng cái nhân hữu lậu, phước báu của cõi nhơn Thiên mà thôi còn lìa tướngtrì kinh  thì mới chứng đặng cái  lý vô vi, công đức vô cùng vô tận.

Trần Hùng giải: Chứa của báubố thí, trì kinh  cho tinh tấn, đều là một phần trong  sáu độ.

Phật hóa độ chúng sanh, chưa hề ngăn trở việc bố thí, nhưng sự  tinh tấn  lại càng ưa hơn.

Bởi người đời hay chấp sự dùng bảy báu cho nhiều mà  bố thí, để cầu  phước lợi, chớ chẳng biết dùng cái báu của  giác tánh  đặng mà tu công đức trong tánh mình. Cho nên Ngài gộp lại mà hỏi, đặng so sánh sự hơn thua.

Trì kinh tinh tấn, là nói theo lý tánh mà tu, tánh vốn đầy khắp chốn Thái hư, thì công đức cũng như vậy, cho nên nói: Công đức tánh.

Chứa báu mà  bố thí  là mượn vật mà tu, vật có chừng thì phước đức cũng có chừng, sánh với  công đức tánh  không đặng. Cho nên ông Tu Bồ Đề nói: "Phước đức ấy là chẳng phải  công đức tánh ". Lại đoán ngay rằng: "Như Lai nói phước đức nhiều đó là bởi có số hạn, nên mới tính nhiều ít đặng".

Ngũ Tổ thường nói: "Tự tánh, nếu mê, phước nào cứu đặng".  Lục Tổ cũng nói: "Công đức  ở trong  tự tánh, chẳng phải bố thí cúng dường  mà cầu đặng". Lại nói: "Mình tự ngộ tự tu lấy, mới thiệt  công đức  của  tự tánh ".

Lời của hai Tổ nói đó thiệt là rất đúng với huyền lý.

Nhan Bính giải: Phật hỏi: "Bằng người dùng bảy báu đầy cả thế giớibố thí đặng phước nhiều chăng?".

Ông Tu Bồ Đề đáp: "Phước đức tuy nhiều, rốt lại chẳng phải công - đức tánh".

Lý Văn Hội giải: Dùng bảy báu đầy cả đại thiên thế giới bố thí, ấy là bố thí trụ tướng, để mong cầu phước lợi, đặng phước tuy nhiều, nhưng không có  minh tâm kiến tánh  đặng.

Ông Phó Đại Sĩ có lời :

Tụng: 

 

Chứa báu cả tam thiên,

Đặng đem chưởng phước điền.

Chỉ gây nhân trược lậu,

Chẳng khỏi cõi nhơn Thiên.

 

Vậy nên biết  bố thí trụ tướng  là chẳng phải phước đức tánh  - Nếu lòng không "năng sở" mà biết  kiến tánh minh tâm, mới là Phước đức tánh

Xuyên Thiền sư giải: Việc chi cũng bởi vô tâm mà đặng.

Tụng: 

 

 Thí báu dầu đầy cả đại thiên,

 Phước duyên chẳng thoát khỏi nhơn Thiên

 Phải tường phước đức nguyên không tánh,

 Mua đặng "phong quang" khỏi dụng tiền.

 

44.-ÂM:

 Nhược phục hữu nhơn, ư thử kinh trung thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thắng bỉ.

NGHĨA:

 Bằng có người thọ trì kinh này nhẫn đến những tứ cú kệ lại vì người mà diễn thuyết, thì phước này hơn phước đức kia.

 

Giải : Sớ Sao giải: Thử kinh  là người người sẵn có, kẻ kẻ vẹn toàn, trên từ chư Phật, dưới đến loài rận, kiến v.v... đều có kinh này. Ấy là tâm diệu viên giác  không chi sánh kịp.

Nhan Bính giải: Phục hữu nhơn ư thử kinh trung thọ trì v.v.. Thọ  là bấy giờ thừa thọ (vâng chịu) - Trì  là buổi buổi phụng trì (vâng giữ).

Bằng diễn thuyết lại cho người khác, cũng như một ngọn đèn, mồi ra trăm ngàn muôn ngọn, thì phước ấy hơn phước kia - Thế nào là hơn phước kia? - Là bởi phước kia là phước thí bảy báu tức là  bố thí trụ tướng  thì đặng cái phước hữu lậu mà thôi, đến khi phước hết rồi cũng phải  đọa lạc.

Còn công này: Bởi  trì kinh  mà ngộ tánh. Tứ cú kệ  hiện ra ở trước, đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp cũng không hề hoại, cho nên nói:

 

Cầu phước nhơn Thiên mà bố thí,

Như tên bắn bổng giữa hư không.

Hựu: Hết trớn thì tên rơi xuống đất,

Gây nên kiếp khác chí không đoạt.

 

Đâu bằng pháp "Thiệt tướng vô vi",

Nhảy một nhảy vào trong cõi Phật.

 

Kinh  Tứ Cú Quyết Nghi Kim Cang  là cốt tủy của Đại Tạng kinh, còn Tứ cú kệ  lại là cốt tủy của kinh Kim Cang. Bằng người  thọ trì  kinh này mà không rõ thấu  Tứ cú kệ  ở chỗ nào, thì đâu có thoát khỏi vòng sanh tửlàm Phật làm Tổ đặng.

Xưa nay luận  Tứ cú kệ  chẳng phải là một; hoặc nói thinh, hương, vị, xúc, pháp; hoặc nói hai bài kệ trong kinh này; hoặc nói câu : "Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai" ; hoặc nói nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt; hoặc nói Hữu vi, Vô vi, Phi hữu vi, Phi vô vi; hoặc nói Hữu đế, Vô đế, Chơn đế, Tục đế; đều là chấp sự thấy hiểu của mình chớ không chi là định luận.

Duy có Đồng Bài Ký có nói: Thiên Thân Bồ Tát lên cung Đâu Suất hỏi Đức Di Lặc: "Thế nào là  Tứ cú kệ?". Đáp: Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả. Còn Lục Tổ Đại sư lại nói là : Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Bằng chấp theo mấy lời không định chắc, không căn cứ đó, nào khác chi đếm đồ châu báu của người, thì mình không hưởng đặng lấy nửa đồng. May nhờ ông Phó Đại Sĩ lộ cái tiêu tức, rất nên thân thiết như vầy: "Luận về Tứ cú kệ, khắn khắn chẳng nên rời " - Lấy đó mà suy thì  Tứ cú kệ, vốn chẳng phải là cầu, ở ngoài, chỉ tại tâm địa ta tỏ sáng mới thiệt là  Tứ cú kệ. Bằng chẳng phải vậy, sao Lục Tổ lại giải  Tứ cú kệ  là: "Ngã nhơn chóng dứt, vọng tưởng mau trừ ", dứt lời liền thành Phật!

Ví bằng kệ ấy mà truyền miệng đặng, chỉ dạy đặng dùng thông minhsuy nghĩ đặng; thì Phật ta là Thầy cõi Thiên nhơn, ở thế bốn mươi chín năm, thuyết pháp  cho cả chúng sanh, đến ba trăm năm mươi độ; còn trong kinh này đến mười bốn chỗ nói Tứ cú kệ, so lại không chỉ bảo cho rõ ràng đoan đích? Có phải Phật ta tiếc chi mấy lời nói mà không thuyết pháp đâu? Cũng bởi e cho người chấp lấy ngón tay làm mặt nguyệt, luống nê cố theo câu CHẾT trong kinh mà không lo  hồi quang phản chiếu câu SỐNG của tự mình.

Vả lại Phật ta còn không dám chấp trước mà chỉ dạy thay huống chi làai ? Ta sở dĩ nói câu sống đây là: Sanh tử thoát ngoài vòng, Thánh phàm đứng dưới gió. Trong chỗ nhựt dụng thường hành, chữ chữ phóng quang, đầu đầu hiện rõ, vốn không một điểm bút mặc nào mà ố đặng. Dầu kẻ có tài nghe rồi liền hiểu cũng phải ngẩn ngơ, huống chi là những hạng  kiến thức  hẹp hòi, mà phân biệt phải quấy cho đặng! Duy có độ lượng hơn người mới biết đặng cái lỗ mũi vốn là ở trước mặt.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Chứa báu cả tam thiên, Đặng đem chưởng phước điền.

Chỉ gây nhân trược lậu, Chẳng khỏi cõi nhân thiên.

Dùng Tứ cú trì tụng, Với Chư Phật tạo duyên.

Biển vô vi muốn tới, Thuyền Bát Nhã mau lên.

 

Vua Huyền Tông giải: Tam thiên trân bảo tuy nhiều, hưởng hết phải mang  sanh diệt.

 

Tứ cú  kinh văn vẫn ít, tỏ rồi chứng quả Bồ đề.

Bách Trượng Thiền sư giải: Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, mỗi mỗi bằng chẳng tham nhiễm cả thảy các pháp, mới gọi là thọ trì Tứ cú kệ, cũng gọi là Tiên nhơn trong bốn quả, mà cũng gọi là bực La Hán đặng  Lục thông.

Bằng hay  Thọ trì Tứ cú kệ công đức  lớn hơn phước  bố thí  bảy báu đầy cả Đại thiên kia.

Trần Hùng giải: Kinh Tam muội có nói: "Cả thảy Phật pháp đều thâu lại ở trong "Tứ cú kệ". Cho nên ngộ đặng cũng không phải tại học chữ nghĩa cho nhiều, chỉ trong nhứt niệm  mà tỏ ngộ thiệt đế  thì mới thông thấu Thiên tánh đặng.

Bằng có người sốt sắng tu hành: Để lòng thì khắn khắn giữ lâu không nản, còn nói ra thì ai nấy cũng đều thông. Người như vậy chẳng phải là giác tánh  riêng cho một mình mình mà thôi, mà cũng giác tánh  cho cả muôn triệu người nữa; công đức ấy không phải lớn sao? Sánh lại thì hơn phước đức của bảy báu đó rất nhiều.

Lý Văn Hội giải: Thọ trìthân, khẩu, ý  đều thanh tịnh.

Hiểu thấu nghĩa kinh, làm theo lời dạy, ví như thuyền vượt biển, không chỗ chẳng thông; ấy cũng kêu là  thọ trì. Đã không hiểu nghĩa kinh mà lại thêm giải đãi, lòng miệng khác nhau, ví như thuyền vào xẻo nhỏ, ắt phải trở ngại; ấy chẳng phải là  thọ trì.

Tứ cú kệ, ông Xuyên Thiền sư có giải ở quyển chót trong phần Ứng Hóa Phi Chơn , đệ32.

Trương Vô Tận giải: Phật là  Vô thượng Pháp vương, lời vàng tuyên bá giáo thánh văn linh, bằng một phen đọc tụng thì đặng Chuyển pháp luân. Quỉ Dạ xoa truyền khắp hư không, thấu đến Tứ thiên vương, Tứ thiên vương  tiếp đặng, đệ báo đến  Phạm thiên, thông khắp mọi nơi tối sáng. Các vị  Long thần  đều ưa mến, ví như chiếu lịnh nhà vua truyền bố khắp trong hoàn vũ, ai dám chẳng tuân? Công đức  tụng kinh rất oai nghiêm thế ấy.

Bằng chỉ lưu hình thức mà không dụng tinh thần, ngoài lặng lẽ mà trong xao động, tầm hàng đếm chữ mà thôi, thì có khác nào: Chim hót xuân, ve ngâm hạ, dầu có tụng cả muôn ngàn biến, cũng không ích gì.

Ông Trì Dương Hương San cậy ông Thiền sư sai một ông Tăng qua Đại Thông Trấn cầu kinh nơi nhà họ Trần, có làm bài tụng:

 

Văn lạ nghĩa nghi tìm thấu lý,

Chớ lâu đời cứ giùi trong giấy,

Xem kinh phải dụng lực xem kinh,

Thường thấy xem kinh duy mắt thấy.

45.-ÂM:

 Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Nhứt thế chư Phật cập chư Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp, giai tùng thử kinh xuất.

NGHĨA:

 Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Cả thảy chư Phật với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều do nơi kinh này mà ra.

 

Giải : Sớ Sao giải: Trong kinh nói: "Chư Phật ba đời và cả thảy diệu pháp  A nậu Bồ đề  đều bởi kinh này mà ra", là tỏ cái công quả trì kinh đã mãn, cho rõ nghĩa của bài trước.

Lại Tâm Kinh có nói: " Chư Phật ba đời bởi nhờ pháp Bát Nhã Ba la mật đa mà đặng quả A nậu Bồ đề, cũng đồng nghĩa ấy".

Lại Trung Quốc sư có nói: Kinh này ví như đại địa, vật chi chẳng phải bởi đất mà sanh? Chư Phật chỉ tại cái tâm, pháp nào chẳng phải bởi tâm mà lập? Cho nên nói: "Đều bởi kinh này mà ra".

Vương Nhựt Hưu giải: A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề  là  chơn tánh - Nhứt thiết chư Phật A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề  là pháp của chư Phật cầu  Chơn tánh.

Hà dĩ cố :Phật tự hỏi "Bởi cớ sao mà  thọ trì giảng giải  kinh này lại đặng phước đức nhiều hơn phước đức  bố thí  bảy báu đầy cả tam thiên thế giới kia?". - Lại  tự  đáp: "Cái pháp cầu chơn tánh  của cả thảy chư Phật đều bởi kinh này mà ra". Vậy thì  công đức  của kinh này thiệt rất lớn không cùng không tột.

Nhan Bính giải: Hà dĩ cố nhứt thiết chư Phật v.v...  Đại Tạng kinh  và pháp  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác  của chư vị cổ Phật, đều bởi kinh này mà ra - Thử kinh  là ngoài ra không còn kinh nào nữa.

Tăng Nhược Nột giải: Giai tùng thử kinh xuất  là chẳng phải chỉ câu văn lời nói trong kinh này mà chỉ là cái  thiệt tướng Bát Nhã, tức là cái tâm. Cái tâm ấy làm tánh thể cho khắp cả các pháp. Tự mình nhứt niệm thì sanh ra cả thảy các pháp.

Lý Văn Hội giải: Phước đức  không tướng sanh ra Ứng thân Phật; trí huệ  không tướng sanh ra Chơn thân Phật, là nói bởi trong cái tâm  của tự mình xuất sanh ra pháp Bồ đề.

Xuyên Thiền sư giải: Nói thử coi, kinh này ở đâu mà ra?

Trên đỉnh Tu Di, giữa giòng đại hải chăng?

Tụng:

 

Phật Tổ ban ơn mới dụng quyền,

Lời lời ghi chép để tuyên truyền.

Kinh này tông chỉvô tướng.

Ở giữa không trung vượt thiết thuyền.

 

Mà đừng có hiểu lầm đa!

46.-ÂM:

 Tu Bồ Đề! Sở vị Phật Pháp giả, tức phi Phật Pháp.

NGHĨA:

 Này Tu Bồ Đề! Gọi là Phật Pháp ấy, nhưng chẳng phải Phật Pháp.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Sở vị Phật pháp là cái pháp  A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của bài trên nói đó.

Phật e cho người nê cố rằng có Phật Pháp, cho nên nói: "Phật Pháp chẳng phải có Phật Pháp chơn thiệt, chỉ cưỡng danh là Phật Pháp vậy thôi. Là bởi Phật Pháp xưa nay vốn không hề có, chỉ mượn đặng mà khai ngộ cho chúng sanh, chớ đối với bổn tánh thì không chi là chơn thiệt cả".

Lục Tổ giải: Như Lai nói "Phật", khiến cho người giác, nói "Pháp", khiến cho người ngộ. Bằng không giác ngộ, còn chấp Phật Pháp ở ngoài, thì không phải là Phật Pháp.

Nhan Bính giải: Sở vị Phật Pháp tức phi Phật Pháp là nói rồi liền bỏ.

Lý Văn Hội giải: Hai bực thừa chấp trước các tướng cho là Phật Pháp, nên mới tầm cầu ở ngoài.

Văn Thù Sư Lợi giải: Cả thảy chúng sanh ngu mê điên đảo chẳng biết  giác ngộ. Vả lại các pháp tu hành đều chẳng lìa khỏi thân mình. Bằng theo ngoài thân mà tu hành, hẳn không phải lẽ.

Bồ Tát đối với cả thảy Phật Pháp, đều không chấp trước, mà cũng chẳng lìa bỏ; thấy như không thấy, nghe như không nghe, tâm cảnh vắng lặng tự nhiên thanh tịnh. Cho nên nói: "Phật Pháp nhưng chẳng phải Phật Pháp".

Người hiểu đạo đã  giác ngộ> rồi thì biết các tướng đều không. Chỉ phải dùng vị  sở đắc tri giải ([107]) làm phương thuốc hay, mới trị cái tâm bịnh  vọng tưởng chấp trước  đặng, thì tâm địa tự nhiên điều phục, không còn chi quái ngại nữa.

Xuyên Thiền Sư giải: Đem táo ngọt đổi bầu đắng của ngươi.

Tụng: 

 

Phật pháp không pháp,

Hay tha hay đoạt.

Có phóng có thâu.

Có sanh có sát.

Nơi giữa mi gian phóng bạch hào.

Người ngu còn đợi hỏi Bồ Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18347)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16675)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13270)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12742)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13586)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11746)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14280)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17792)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22655)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13478)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15562)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16104)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11395)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15706)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13173)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21956)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16180)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19160)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24832)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17694)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17108)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18614)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19043)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18853)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14402)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23101)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28544)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15194)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13698)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16458)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143560)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16358)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17428)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47398)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39115)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15797)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23120)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16740)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14296)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13882)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17223)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14362)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16912)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27954)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50170)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38478)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28535)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52168)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35825)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32873)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50765)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63667)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49670)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56986)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47509)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39382)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38433)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36569)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32206)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46674)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant