Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương tám

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9171)
Chương tám

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG TÁM

42.-ÂM:

 Tu Bồ Đề: Ư ý vân hà? - Nhược nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo ([106]) dĩ dụng bố thí, thị nhơn sở đắc phước đức ninh vi đa phủ?

NGHĨA:

 Này Tu Bồ Đề: Ý ông thế nào? - Bằng có người dùng bảy báu chất đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, đem ra mà bố thí, người ấy có đặng phước đức nhiều chăng?

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Tam thiên đại thiên thế giới  là chỗ có ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt đây, gọi là một tiểu thế giới, nơi trung giannúi Tu Di, mặt nhựt mặt nguyệt thì vận hành chung quanh núi ấy, nên bốn phía chia ra làm bốn châu thiên hạ là: Phương Nam: Diêm Phù Đề, phương Đông: Phất Bà Đề; phương Tây: Cù Và Ni; và phương Bắc : Uất Đan Việt.

Còn đường vận hành của mặt nhựt mặt nguyệt, thì từ phân nửa núi trở xuống mà thôi, cho nên sự cao của núi ấy, thì phân nửa núi sắp lên, cao khỏi trên đường vận hành của mặt nhựt mặt nguyệt; trên ấy lại chia ra bốn phương mỗi phương có tám cõi trời; và ở trung gian một cõi, cộng là ba mươi ba cõi trời; gọi là Tam thập Tam thiên. Tiếng Phạm kêu là cõi Trời Đao Lợi (Đao Lợi Thiên).

Bốn châu thiên hạ mà có mặt nhựt mặt nguyệt vận hành đó là một cõi  tiểu thế giới, một ngàn  tiểu thế giới  như vậy là một  tiểu thiên, một ngàn tiểu thiên  là một  trung thiên, một ngàn  trung thiên  là  đại thiên. Bởi ba lần nói: "thiên" cho nên nói: "Tam thiên đại thiên", chớ kỳ thiệt có một đại thiên  mà thôi; như vậy đó mới kêu là  "Đại thế giới" (ba mươi ba ngàn triệu: 33.000.000.000 thế giới).

Ninh vi đa phủ: Chữ  ninh  là của Thầy phiên dịch dùng làm chữ trợ, chẳng cần để ý khảo nghĩa làm chi.

Lục Tổ  giải: Bài này là Như Lai hỏi cái ý đó thể nào? Bố thícúng dường  là phước đức ở ngoài thân, thọ trì  kinh điển là phước ở trong thân, cũng gọi là: Công đức. Thân phước là ăn mặc, tánh phước là  trí huệ, tuy có ăn mặc mà tánh ngu mê, là kiếp trước bố thí cúng dường  mà không  thọ trì  kinh điển. Còn thông minh trí huệ lại nghèo hèn thiếu ăn thiếu mặc, là kiếp trước trì kinh nghe pháp mà không  bố thí cúng dường.

Tu phước đức bề ngoài tức là sự ăn mặc, tu phước đức bề trong tức là Trí huệ. Tiền tài là báu của thế, Bát Nhã  là báu trong tâm; trong ngoài song tu mới là toàn đức.

Ấy là xưng tụng "Công đức trì kinh hơn phước đức bố thí ".

Sớ Sao giải: Thất bảo  là kim, ngân, lưu ly, san hô, mã não, pha ly, xích chơn châu.

Ý Phật muốn rõ  vô vi, nên trước đem phước  hữu lậu  mà hỏi ông  Thiện Hiện : "Dùng bảy báu đầy cả Tam thiên thế giới đem ra bố thí, đặng phước đức nhiều chăng?". Bài sau ông Tu Bồ Đề đáp lại.

43.-ÂM:

 Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? - Thị phước đức, tức phi phước đức tánh, thị cố, Như Lai thuyết phước đức đa".

NGHĨA:

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Bởi cớ sao? - Bởi phước đức ấy, chẳng phải phước đức tánh, cho nên Như Lai nói phước đức nhiều".

 

Giải : Tạ Linh Vận giải: Phước đức vốn không có tánh bởi tùy  nhân duyên  mới có nhiều, nhiều thì dễ chấp trước nên phải bỏ đi.

Lục Tổ giải: Dùng bảy báu đầy Tam thiên thế giới bố thí, đặng phước tuy nhiều, nhưng không chút chi lợi ích cho tánh cả. Nương theo "Ma ha Bát Nhã Ba la mật đa" tu hành, khiến cho tự tánh chẳng đọa vào  quả báo  mới gọi là công đức tánh.

Lòng có "năng sở" là chẳng phải công đức tánh; dứt lòng "năng sở"  mới gọi là công đức tánh; tuân theo giáo pháp của Phật, làm theo hạnh của Phật, mới gọi công đức tánh; không tuân theo giáo pháp của Phật, không làm theo hạnh của Phật; là chẳng phải Công đức tánh.

Tăng Nhược Nột giải: Ông Không Sanh nói bảy báu đầy cả đại thiên đó, hễ báu nhiều thì phước nhiều, cho nên nói: "Rất nhiều".

Thị phước đức  là "sự phước"  -  Tức phi phước đức tánh  là chẳng phải phước đức của tánh  Bát Nhã; mà đã chẳng phải "lý phước" thì chẳng đến quả Bồ đề - Thị cố Như Lai thuyết phước đức đa  là sự phước của thế gian, cho nên nói "nhiều".

Tăng Tử Vinh giải: Bố thí  mà trụ tướng, chỉ đặng cái nhân hữu lậu, phước báu của cõi nhơn Thiên mà thôi còn lìa tướngtrì kinh  thì mới chứng đặng cái  lý vô vi, công đức vô cùng vô tận.

Trần Hùng giải: Chứa của báubố thí, trì kinh  cho tinh tấn, đều là một phần trong  sáu độ.

Phật hóa độ chúng sanh, chưa hề ngăn trở việc bố thí, nhưng sự  tinh tấn  lại càng ưa hơn.

Bởi người đời hay chấp sự dùng bảy báu cho nhiều mà  bố thí, để cầu  phước lợi, chớ chẳng biết dùng cái báu của  giác tánh  đặng mà tu công đức trong tánh mình. Cho nên Ngài gộp lại mà hỏi, đặng so sánh sự hơn thua.

Trì kinh tinh tấn, là nói theo lý tánh mà tu, tánh vốn đầy khắp chốn Thái hư, thì công đức cũng như vậy, cho nên nói: Công đức tánh.

Chứa báu mà  bố thí  là mượn vật mà tu, vật có chừng thì phước đức cũng có chừng, sánh với  công đức tánh  không đặng. Cho nên ông Tu Bồ Đề nói: "Phước đức ấy là chẳng phải  công đức tánh ". Lại đoán ngay rằng: "Như Lai nói phước đức nhiều đó là bởi có số hạn, nên mới tính nhiều ít đặng".

Ngũ Tổ thường nói: "Tự tánh, nếu mê, phước nào cứu đặng".  Lục Tổ cũng nói: "Công đức  ở trong  tự tánh, chẳng phải bố thí cúng dường  mà cầu đặng". Lại nói: "Mình tự ngộ tự tu lấy, mới thiệt  công đức  của  tự tánh ".

Lời của hai Tổ nói đó thiệt là rất đúng với huyền lý.

Nhan Bính giải: Phật hỏi: "Bằng người dùng bảy báu đầy cả thế giớibố thí đặng phước nhiều chăng?".

Ông Tu Bồ Đề đáp: "Phước đức tuy nhiều, rốt lại chẳng phải công - đức tánh".

Lý Văn Hội giải: Dùng bảy báu đầy cả đại thiên thế giới bố thí, ấy là bố thí trụ tướng, để mong cầu phước lợi, đặng phước tuy nhiều, nhưng không có  minh tâm kiến tánh  đặng.

Ông Phó Đại Sĩ có lời :

Tụng: 

 

Chứa báu cả tam thiên,

Đặng đem chưởng phước điền.

Chỉ gây nhân trược lậu,

Chẳng khỏi cõi nhơn Thiên.

 

Vậy nên biết  bố thí trụ tướng  là chẳng phải phước đức tánh  - Nếu lòng không "năng sở" mà biết  kiến tánh minh tâm, mới là Phước đức tánh

Xuyên Thiền sư giải: Việc chi cũng bởi vô tâm mà đặng.

Tụng: 

 

 Thí báu dầu đầy cả đại thiên,

 Phước duyên chẳng thoát khỏi nhơn Thiên

 Phải tường phước đức nguyên không tánh,

 Mua đặng "phong quang" khỏi dụng tiền.

 

44.-ÂM:

 Nhược phục hữu nhơn, ư thử kinh trung thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thắng bỉ.

NGHĨA:

 Bằng có người thọ trì kinh này nhẫn đến những tứ cú kệ lại vì người mà diễn thuyết, thì phước này hơn phước đức kia.

 

Giải : Sớ Sao giải: Thử kinh  là người người sẵn có, kẻ kẻ vẹn toàn, trên từ chư Phật, dưới đến loài rận, kiến v.v... đều có kinh này. Ấy là tâm diệu viên giác  không chi sánh kịp.

Nhan Bính giải: Phục hữu nhơn ư thử kinh trung thọ trì v.v.. Thọ  là bấy giờ thừa thọ (vâng chịu) - Trì  là buổi buổi phụng trì (vâng giữ).

Bằng diễn thuyết lại cho người khác, cũng như một ngọn đèn, mồi ra trăm ngàn muôn ngọn, thì phước ấy hơn phước kia - Thế nào là hơn phước kia? - Là bởi phước kia là phước thí bảy báu tức là  bố thí trụ tướng  thì đặng cái phước hữu lậu mà thôi, đến khi phước hết rồi cũng phải  đọa lạc.

Còn công này: Bởi  trì kinh  mà ngộ tánh. Tứ cú kệ  hiện ra ở trước, đồng như chốn Thái hư, lịch kiếp cũng không hề hoại, cho nên nói:

 

Cầu phước nhơn Thiên mà bố thí,

Như tên bắn bổng giữa hư không.

Hựu: Hết trớn thì tên rơi xuống đất,

Gây nên kiếp khác chí không đoạt.

 

Đâu bằng pháp "Thiệt tướng vô vi",

Nhảy một nhảy vào trong cõi Phật.

 

Kinh  Tứ Cú Quyết Nghi Kim Cang  là cốt tủy của Đại Tạng kinh, còn Tứ cú kệ  lại là cốt tủy của kinh Kim Cang. Bằng người  thọ trì  kinh này mà không rõ thấu  Tứ cú kệ  ở chỗ nào, thì đâu có thoát khỏi vòng sanh tửlàm Phật làm Tổ đặng.

Xưa nay luận  Tứ cú kệ  chẳng phải là một; hoặc nói thinh, hương, vị, xúc, pháp; hoặc nói hai bài kệ trong kinh này; hoặc nói câu : "Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai" ; hoặc nói nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt; hoặc nói Hữu vi, Vô vi, Phi hữu vi, Phi vô vi; hoặc nói Hữu đế, Vô đế, Chơn đế, Tục đế; đều là chấp sự thấy hiểu của mình chớ không chi là định luận.

Duy có Đồng Bài Ký có nói: Thiên Thân Bồ Tát lên cung Đâu Suất hỏi Đức Di Lặc: "Thế nào là  Tứ cú kệ?". Đáp: Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả. Còn Lục Tổ Đại sư lại nói là : Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Bằng chấp theo mấy lời không định chắc, không căn cứ đó, nào khác chi đếm đồ châu báu của người, thì mình không hưởng đặng lấy nửa đồng. May nhờ ông Phó Đại Sĩ lộ cái tiêu tức, rất nên thân thiết như vầy: "Luận về Tứ cú kệ, khắn khắn chẳng nên rời " - Lấy đó mà suy thì  Tứ cú kệ, vốn chẳng phải là cầu, ở ngoài, chỉ tại tâm địa ta tỏ sáng mới thiệt là  Tứ cú kệ. Bằng chẳng phải vậy, sao Lục Tổ lại giải  Tứ cú kệ  là: "Ngã nhơn chóng dứt, vọng tưởng mau trừ ", dứt lời liền thành Phật!

Ví bằng kệ ấy mà truyền miệng đặng, chỉ dạy đặng dùng thông minhsuy nghĩ đặng; thì Phật ta là Thầy cõi Thiên nhơn, ở thế bốn mươi chín năm, thuyết pháp  cho cả chúng sanh, đến ba trăm năm mươi độ; còn trong kinh này đến mười bốn chỗ nói Tứ cú kệ, so lại không chỉ bảo cho rõ ràng đoan đích? Có phải Phật ta tiếc chi mấy lời nói mà không thuyết pháp đâu? Cũng bởi e cho người chấp lấy ngón tay làm mặt nguyệt, luống nê cố theo câu CHẾT trong kinh mà không lo  hồi quang phản chiếu câu SỐNG của tự mình.

Vả lại Phật ta còn không dám chấp trước mà chỉ dạy thay huống chi làai ? Ta sở dĩ nói câu sống đây là: Sanh tử thoát ngoài vòng, Thánh phàm đứng dưới gió. Trong chỗ nhựt dụng thường hành, chữ chữ phóng quang, đầu đầu hiện rõ, vốn không một điểm bút mặc nào mà ố đặng. Dầu kẻ có tài nghe rồi liền hiểu cũng phải ngẩn ngơ, huống chi là những hạng  kiến thức  hẹp hòi, mà phân biệt phải quấy cho đặng! Duy có độ lượng hơn người mới biết đặng cái lỗ mũi vốn là ở trước mặt.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Chứa báu cả tam thiên, Đặng đem chưởng phước điền.

Chỉ gây nhân trược lậu, Chẳng khỏi cõi nhân thiên.

Dùng Tứ cú trì tụng, Với Chư Phật tạo duyên.

Biển vô vi muốn tới, Thuyền Bát Nhã mau lên.

 

Vua Huyền Tông giải: Tam thiên trân bảo tuy nhiều, hưởng hết phải mang  sanh diệt.

 

Tứ cú  kinh văn vẫn ít, tỏ rồi chứng quả Bồ đề.

Bách Trượng Thiền sư giải: Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, mỗi mỗi bằng chẳng tham nhiễm cả thảy các pháp, mới gọi là thọ trì Tứ cú kệ, cũng gọi là Tiên nhơn trong bốn quả, mà cũng gọi là bực La Hán đặng  Lục thông.

Bằng hay  Thọ trì Tứ cú kệ công đức  lớn hơn phước  bố thí  bảy báu đầy cả Đại thiên kia.

Trần Hùng giải: Kinh Tam muội có nói: "Cả thảy Phật pháp đều thâu lại ở trong "Tứ cú kệ". Cho nên ngộ đặng cũng không phải tại học chữ nghĩa cho nhiều, chỉ trong nhứt niệm  mà tỏ ngộ thiệt đế  thì mới thông thấu Thiên tánh đặng.

Bằng có người sốt sắng tu hành: Để lòng thì khắn khắn giữ lâu không nản, còn nói ra thì ai nấy cũng đều thông. Người như vậy chẳng phải là giác tánh  riêng cho một mình mình mà thôi, mà cũng giác tánh  cho cả muôn triệu người nữa; công đức ấy không phải lớn sao? Sánh lại thì hơn phước đức của bảy báu đó rất nhiều.

Lý Văn Hội giải: Thọ trìthân, khẩu, ý  đều thanh tịnh.

Hiểu thấu nghĩa kinh, làm theo lời dạy, ví như thuyền vượt biển, không chỗ chẳng thông; ấy cũng kêu là  thọ trì. Đã không hiểu nghĩa kinh mà lại thêm giải đãi, lòng miệng khác nhau, ví như thuyền vào xẻo nhỏ, ắt phải trở ngại; ấy chẳng phải là  thọ trì.

Tứ cú kệ, ông Xuyên Thiền sư có giải ở quyển chót trong phần Ứng Hóa Phi Chơn , đệ32.

Trương Vô Tận giải: Phật là  Vô thượng Pháp vương, lời vàng tuyên bá giáo thánh văn linh, bằng một phen đọc tụng thì đặng Chuyển pháp luân. Quỉ Dạ xoa truyền khắp hư không, thấu đến Tứ thiên vương, Tứ thiên vương  tiếp đặng, đệ báo đến  Phạm thiên, thông khắp mọi nơi tối sáng. Các vị  Long thần  đều ưa mến, ví như chiếu lịnh nhà vua truyền bố khắp trong hoàn vũ, ai dám chẳng tuân? Công đức  tụng kinh rất oai nghiêm thế ấy.

Bằng chỉ lưu hình thức mà không dụng tinh thần, ngoài lặng lẽ mà trong xao động, tầm hàng đếm chữ mà thôi, thì có khác nào: Chim hót xuân, ve ngâm hạ, dầu có tụng cả muôn ngàn biến, cũng không ích gì.

Ông Trì Dương Hương San cậy ông Thiền sư sai một ông Tăng qua Đại Thông Trấn cầu kinh nơi nhà họ Trần, có làm bài tụng:

 

Văn lạ nghĩa nghi tìm thấu lý,

Chớ lâu đời cứ giùi trong giấy,

Xem kinh phải dụng lực xem kinh,

Thường thấy xem kinh duy mắt thấy.

45.-ÂM:

 Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Nhứt thế chư Phật cập chư Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp, giai tùng thử kinh xuất.

NGHĨA:

 Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Cả thảy chư Phật với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều do nơi kinh này mà ra.

 

Giải : Sớ Sao giải: Trong kinh nói: "Chư Phật ba đời và cả thảy diệu pháp  A nậu Bồ đề  đều bởi kinh này mà ra", là tỏ cái công quả trì kinh đã mãn, cho rõ nghĩa của bài trước.

Lại Tâm Kinh có nói: " Chư Phật ba đời bởi nhờ pháp Bát Nhã Ba la mật đa mà đặng quả A nậu Bồ đề, cũng đồng nghĩa ấy".

Lại Trung Quốc sư có nói: Kinh này ví như đại địa, vật chi chẳng phải bởi đất mà sanh? Chư Phật chỉ tại cái tâm, pháp nào chẳng phải bởi tâm mà lập? Cho nên nói: "Đều bởi kinh này mà ra".

Vương Nhựt Hưu giải: A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề  là  chơn tánh - Nhứt thiết chư Phật A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề  là pháp của chư Phật cầu  Chơn tánh.

Hà dĩ cố :Phật tự hỏi "Bởi cớ sao mà  thọ trì giảng giải  kinh này lại đặng phước đức nhiều hơn phước đức  bố thí  bảy báu đầy cả tam thiên thế giới kia?". - Lại  tự  đáp: "Cái pháp cầu chơn tánh  của cả thảy chư Phật đều bởi kinh này mà ra". Vậy thì  công đức  của kinh này thiệt rất lớn không cùng không tột.

Nhan Bính giải: Hà dĩ cố nhứt thiết chư Phật v.v...  Đại Tạng kinh  và pháp  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác  của chư vị cổ Phật, đều bởi kinh này mà ra - Thử kinh  là ngoài ra không còn kinh nào nữa.

Tăng Nhược Nột giải: Giai tùng thử kinh xuất  là chẳng phải chỉ câu văn lời nói trong kinh này mà chỉ là cái  thiệt tướng Bát Nhã, tức là cái tâm. Cái tâm ấy làm tánh thể cho khắp cả các pháp. Tự mình nhứt niệm thì sanh ra cả thảy các pháp.

Lý Văn Hội giải: Phước đức  không tướng sanh ra Ứng thân Phật; trí huệ  không tướng sanh ra Chơn thân Phật, là nói bởi trong cái tâm  của tự mình xuất sanh ra pháp Bồ đề.

Xuyên Thiền sư giải: Nói thử coi, kinh này ở đâu mà ra?

Trên đỉnh Tu Di, giữa giòng đại hải chăng?

Tụng:

 

Phật Tổ ban ơn mới dụng quyền,

Lời lời ghi chép để tuyên truyền.

Kinh này tông chỉvô tướng.

Ở giữa không trung vượt thiết thuyền.

 

Mà đừng có hiểu lầm đa!

46.-ÂM:

 Tu Bồ Đề! Sở vị Phật Pháp giả, tức phi Phật Pháp.

NGHĨA:

 Này Tu Bồ Đề! Gọi là Phật Pháp ấy, nhưng chẳng phải Phật Pháp.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Sở vị Phật pháp là cái pháp  A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của bài trên nói đó.

Phật e cho người nê cố rằng có Phật Pháp, cho nên nói: "Phật Pháp chẳng phải có Phật Pháp chơn thiệt, chỉ cưỡng danh là Phật Pháp vậy thôi. Là bởi Phật Pháp xưa nay vốn không hề có, chỉ mượn đặng mà khai ngộ cho chúng sanh, chớ đối với bổn tánh thì không chi là chơn thiệt cả".

Lục Tổ giải: Như Lai nói "Phật", khiến cho người giác, nói "Pháp", khiến cho người ngộ. Bằng không giác ngộ, còn chấp Phật Pháp ở ngoài, thì không phải là Phật Pháp.

Nhan Bính giải: Sở vị Phật Pháp tức phi Phật Pháp là nói rồi liền bỏ.

Lý Văn Hội giải: Hai bực thừa chấp trước các tướng cho là Phật Pháp, nên mới tầm cầu ở ngoài.

Văn Thù Sư Lợi giải: Cả thảy chúng sanh ngu mê điên đảo chẳng biết  giác ngộ. Vả lại các pháp tu hành đều chẳng lìa khỏi thân mình. Bằng theo ngoài thân mà tu hành, hẳn không phải lẽ.

Bồ Tát đối với cả thảy Phật Pháp, đều không chấp trước, mà cũng chẳng lìa bỏ; thấy như không thấy, nghe như không nghe, tâm cảnh vắng lặng tự nhiên thanh tịnh. Cho nên nói: "Phật Pháp nhưng chẳng phải Phật Pháp".

Người hiểu đạo đã  giác ngộ> rồi thì biết các tướng đều không. Chỉ phải dùng vị  sở đắc tri giải ([107]) làm phương thuốc hay, mới trị cái tâm bịnh  vọng tưởng chấp trước  đặng, thì tâm địa tự nhiên điều phục, không còn chi quái ngại nữa.

Xuyên Thiền Sư giải: Đem táo ngọt đổi bầu đắng của ngươi.

Tụng: 

 

Phật pháp không pháp,

Hay tha hay đoạt.

Có phóng có thâu.

Có sanh có sát.

Nơi giữa mi gian phóng bạch hào.

Người ngu còn đợi hỏi Bồ Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10326)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12210)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15331)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16621)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12234)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11498)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14286)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24628)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10712)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12512)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10407)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12363)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12067)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13024)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11465)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17463)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21420)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10691)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19271)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12431)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26062)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14404)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13742)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16860)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17604)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13146)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12550)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11626)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11635)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20498)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19006)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19608)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18679)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15050)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15053)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14009)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15536)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14573)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15867)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18444)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15795)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11095)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53702)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13012)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16553)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15429)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19976)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15582)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15372)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15164)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10407)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20382)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15519)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13067)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20180)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13307)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29042)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11731)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant