Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai mươi mốt

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9342)
Chương hai mươi mốt

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT

127.ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? - Nhược nhơn ngôn: Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật; bất năng giải ngã sở thuyết cố.

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Ông chớ nói Như Lai có tưởng như vầy: "Ta nên có thuyết pháp. Chớ tưởng như thê">.

 Bởi cớ sao? - Nếu ông mà nói: "Như Lai có thuyết pháp, tức là chê Phật; đâu có tỏ nghĩa của Ta đặng".

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Lòng đã thanh tịnh, nói nín đều như, gặp duyên thì thí, duyên qua rồi thì thôi.

Trương Vô Tận giải: Không có pháp, lấy chi mà nói "không"? Không có người lấy chi mà thuyết pháp? Ấy là tùy cái lòng sanh diệt chẳng đồng, nên mới có pháp có thuyết!

Bằng chấp cái lòng có sanh diệtthuyết pháp, là khiến cho cả thảy những người chẳng thấy đặng tự tánh; tức là chê Phật. Chỉ không có lòng sanh diệt mới thuyết pháp đặng cho.

Xuyên Thiền sư giải: Vậy là phải, mà Đại tạng, Tiểu tạng bởi nơi nào mà ra?


Tụng:

Có thuyết thì khinh báng,

Mà không thuyết chẳng thông.

Vì ngươi truyền lý nhiệm,

Ác mọc ánh non Đông.

128.ÂM:

Tu Bồ Đề! Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Thuyết pháp đó, không có pháp chi mà thuyết, chỉ cưỡng danh là thuyết pháp vậy thôi".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Nhược nhơn ngôn v.v.. là Phật vốn chẳng thuyết pháp, bởi chơn tánh không có pháp chi mà thuyết! Nếu nói Phật vốn có thuyết pháp, thì cái chí còn chấp tại nơi pháp.

Mà chí của Phật, há phải tại nơi pháp đâu? Vậy nên nói: chê Phật. Chẳng rõ đặng cái thuyết của Phật là vậy.

Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Thuyết pháp thiệt không có pháp chi", pháp bổn lai không có, vì sự trừ khử ngoại vọng cho chúng sanh mà thuyết, chớ có pháp chi chơn thiệt đâu! Nếu chúng sanh đã ngộ thì chẳng dùng pháp nữa. Cho nên nói: Chỉ cưỡng danh là thuyết pháp vậy thôi.

Bài này đồng nghĩa với câu "Không có pháp chi mà Như Lai nói", trong phần thứ bảy và câu "Như Lai không có chỗ chi thuyết pháp", trong phần thứ mười ba.

Nhưng mà đến đây còn lập lại nữa là vì những thính giả đến sau.

Nhan Bính  giải: Trọn ngày ăn cơm chẳng hề cắn lấy một hột gạo, trọn ngày mặc áo chẳng hề mang lấy một sợi tơ. Sở dĩ Phật ta thuyết pháp, thuyết tới thuyết lui trong 49 năm, chớ hề nói lấy chữ. Duy có người đồng đạo mới biết đặng cái câu: "Nếu nói Như Lai có chỗ thuyết, tức là chê Phật, và chẳng rõ nghĩa của Ta đặng" thì dầu có thuyết cho đến hoa trên không rớt vãi xuống, cũng lạc vào pháp môn thứ hai (chẳng phải pháp) mà thôi.

Duy có hạng người  Tọa đoạn  (không tâm) thâu mười phương lại làm một mảnh, không còn ngôn thuyết gì mà nói cho đúng, như vậy mới thiệt là thuyết pháp. Sở dĩ nói: Tường vách và miểng sành ưa mùi thiền phới phở là vậy.

Người tiền bối có tụng:

 

Rất kỳ thay rất kỳ thay!

Thuyết pháp vô tình pháp quá hay;

Lý nhiệm tai nghe chưa dễ thấu;

Nghe bằng con mắt mới anh tài.

 

Tạ Linh Vận  giải: Giáo đạo, truyền đạo cũng nghĩa là thuyết pháp. Trước đây nói không có chi thuyết, là không phải làm thinh mà chẳng nói, chỉ không để ý mà thuyết, thì thuyết đầy cả thiên hạ cũng không lỗi với cái lý pháp. Không để ýkhông chấp các tướng, lòng không chỗ trụ.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng: Tướng lặng danh liền dứt,

Lòng yêu cảnh ắt dang.

Lại qua đều chẳng thấy.

Nói nín thảy không can.

Trí tới viên thành lý.

Thân vào pháp tánh thường.

Nhị đề cần ấn chứng,

Vốn thiệt chỗ tân lương.

Xuyên Thiền sư giải: Gậy sừng thỏ, quạt lông rùa.

Tụng:

Lâu đời ngựa đá phát hào quang,

Trâu sắt tuông pha hét hộc vang.

Chỉ dặm hư không không ảnh tích.

Ẩn nơi Bắc Đẩu mấy ai tường!

 

Nói thử coi: thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp?

129.ÂM:

Nhĩ thời, Huệ Mạng Tu Bồ Đề...

NGHĨA:

Khi ấy, Huệ Mạng Tu Bồ Đề...

 

Giải : Sớ Sao  giải: Nhĩ thời  là đương lúc khởi hỏi. Huệ Mạng: là ông Thiện Hiện thông trí hải của Phật, thấu rõ pháp môn, tỏ ngộ lý Vô sanh, biết đặng cái mạng của bổn nguyện: chẳng phải đi, chẳng phải lại. Cho nên nói: "Huệ Mạng Tu Bồ Đề".

Trần Hùng  giải: Chữ  Huệ Mạng Tu Bồ Đề, thấy ở trong kinh  Pháp Hoa, phẩm  Tín giải: "Huệ  là nói về đức, Mạng  là nói về sống lâu", là cái tên riêng của bực Trưởng lão.

Nhan Bính giải: Huệ Mạng  là đủ cái tánh trí. Cho nên nói: "Thiên mạng chi vị tánh", nghĩa là Mạng trời gọi là tánh (Câu này ở sách Trung Dung).

130.ÂM:

Bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh, ư vị lai thế văn thuyết thị pháp, sanh tín tâm phủ?". Phật ngôn: "Tu Bồ Đề! Bỉ phi chúng sanh phi bất chúng sanh. Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh thị danh chúng sanh".

NGHĨA:

Bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Có những chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này, có sanh lòng tin chăng?".

 Phật nói: "Tu Bồ Đề! Nó chẳng phải chúng sanh, nhưng chẳng phải là không phải chúng sanh.

 Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng sanh ấy, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, chỉ cưỡng danh là chúng sanh".

 

Giải : Sớ Sao  giải: Phật nói chẳng phải chúng sanh là đều đủ cái tánh chơn nhứt, đồng nguyên với Phật, cho nên nói: Chẳng phải chúng sanh.

Phi bất chúng sanh là bỏ chơn theo vọng, làm mất linh tánh của mình, cho nên nói: Chẳng phải là không phải chúng sanh.

Vương Nhựt Hưu  giải: Trong phần thứ hai có nói: Mạng là sống lâu, thọ  là già. Nói  Huệ Mạng là ông Tu Bồ Đề đã đặng  Huệ nhãn  và tuổi già.

Đến đây Tu Bồ Đề lại nói: "Vả có chúng sanh đời sau nghe thuyết pháp này, có sanh lòng tin chăng?". Phật nói: "Chẳng phải chúng sanh, chẳng phải là không phải chúng sanh", lại e người nghe pháp lầm nhận chúng sanh là có thiệt, nên nói chẳng phải chúng sanh, là bởi trong nghiệp duyênhiện ra, nghiệp hết thì dứt, có chi là chúng sanh chơn thiệt đâu. Nhưng mà có cái thân của chúng sanh hiện tại đó, thì cũng chẳng đặng gọi là chẳng phải chúng sanh. Cho nên nói: Chẳng phải là không phải chúng sanh, là hư vọng chớ chẳng phải chơn thiệt.

Phật lại hỏi: "Bởi cớ sao", là bởi cớ sao chẳng phải không chúng sanh, rồi tự đáp mà bảo ông Tu Bồ Đề: "Chúng sanh, chúng sanh" là phàm làm chúng sanh là cả thảy chúng sanh.

Như Lai thuyết v.v... là cả thảy chúng sanh, Phật đều nói là chẳng phải chúng sanh chơn thiệt, chỉ hư danh là chúng sanh vậy thôi.

Ấy là Phật tự nói, mà lại nói Như Lai nói, thì chư Phật cũng nói như vậy.

Nhan Bính  giải: Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Chúng sanh đời sau nghe thuyết pháp này, sanh lòng tin chăng?".

Đáp : "Chẳng phải chúng sanh, chẳng phải là không phải chúng sanh", là bởi chúng sanh thuộc về có, còn chẳng phải chúng sanh thuộc về không.

Tánh của chúng sanh vốn đồng hư không, không lạc vào hai thứ  tà kiến  có và không, nên Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, chỉ cưỡng danh là chúng sanh. Cho nên Phật thường nói: "Ta chẳng dám khinh bọn ngươi, bọn ngươi đều đặng làm Phật. Vậy thì, Phật ta chưa hề khinh chúng sanh bao giờ".

Trí Giả Thiền sư  giải:

Tụng:

Chớ cho rằng có nói,

Chớ nói diệu vô cùng.

Nói rõ ràng khi Phật,

Đạo mầu nhiệm tại trong.

Nhiều lời càng khó hiểu,

Ba thể xét đều không.

Tỏ ngộ trong giây phút,

Chẳng sanh chẳng thỉ chung.

 

Xuyên Thiền sư giải: Lửa nóng, gió động, nước ướt, đất cứng.

Tụng:

Nay không thành đặng ngựa truy phong.

Ác hóa loan thiệt khó mong.

Tuy vậy chớ cho may mảy niệm.

La, lừa thiên vạn ở nơi trong.

 

Ông Linh U Pháp sư gia thêm, từ chữ  Huệ Mạng, Tu Bồ Đề, đến bài này có 62 chữ; việc ấy hồi đời Trường Khánh nhà Đường năm thứ hai (822), hiện nay (đời nhà Minh) ở tại Hào Châu có ghi trong trong bia đá, trước chùa ông Chung Ly.

Ông Lục Tổ đã có giải ở bài trước nên không giải, nhưng cũng ghi vào đây.

Lý Văn Hội giải: Bài này là của đời Ngụy dịch ra, nguyên của ông Tăng ở đời vua Trường Khánh (811) là Linh U Pháp sư, vào Minh phủ nhờ Minh Vương chỉ ra. Đời Ngụy dịch thì còn, mà đời Tần dịch thì không còn.

Như kính tin Phật pháp thì bị trước về  Thánh kín. Ấy là chẳng phải chúng sanh; bằng tin Phật pháp thì bị trước về  phàm kiến. Ấy là chẳng phải là không phải chúng sanh.

Bằng khởi ra hai thứ  tà kiến  ấy, thì chẳng rõ lý trung đạo. Vậy thì phải làm sao cho phàm Thánh đều bỏ, chẳng trụ hai đầu mối là kiến giải chơn chánh. Cho nên nói: Chúng sanh, chúng sanh, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh chỉ cưỡng danh là chúng sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18406)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16758)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13334)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12816)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13649)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11813)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14336)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17835)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22704)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13535)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15656)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16165)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11440)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15776)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13226)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 22030)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16293)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19250)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24965)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17780)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17163)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18715)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19146)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18955)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14485)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23177)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28647)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15252)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13776)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16592)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143912)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16396)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17505)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47459)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39227)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15844)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23248)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16825)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14339)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13940)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17300)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14410)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16965)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 28041)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50269)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38578)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28606)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52264)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35918)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32936)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50874)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63778)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47589)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39437)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36623)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32257)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46733)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant