Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương mười hai

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9274)
Chương mười hai

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG MƯỜI HAI

60.-ÂM:

Phục thứ: "Tu Bồ Đề! Tùy thuyết thị kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng đương tri thử xứ, nhứt thiết thế gian; Thiên, Nhơn, A tu la giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu".

NGHĨA:

Lại nói tiếp: "Này Tu Bồ Đề! Chỗ nào tứ cú kệ, phải biết chỗ ấy, cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la đều nên cúng dường, cũng như tháp chùa, của Phật vậy".

 

Giải : Trần Hùng giải: Tùy thuyết  là tùy thuận theo chúng sanhthuyết pháp.

Thuyết kinh này, đến chỗ Tứ cú kệ  thì cả Thiên, Nhơn, A tu la  các đạo  đều  dùng: Hoa hương, chuỗi hột, tràng phan, bửu cái, hương đăng, mà cung kỉnh cúng dường, như có tháp Xá lợi của Chơn thân Phật ở đó vậy, huống chi là đọc tụng toàn cả bộ kinh này! Phải biết đọc tụng toàn cả bộ kinh này, thì cái pháp đặng thành tựu  đó, là pháp thượng thượng "xuất thế gian", chớ chẳng phải là pháp tầm thường.

Cho nên Đàn kinh có nói: "Pháp Ma ha Bát Nhã Ba la mật  là pháp rất tôn thượng đúng bực nhứt".

Tạ Linh Vận giải: Phong  tẩn pháp thân  gọi là tháp, tạo tượng, lập chùa gọi là miễu.

Thể thánh nghi thần đều ở trong Tứ cú kệ  nên phải dưng cúng trí kỉnh cho hết lòng.

Lục Tổ giải: Tùy chỗ nào có người ta, thì nên giảng kinh này; thường phải giữ lòng không  sở đắc, ắt trong thân ấy hiện toàn thân Xá lợi của  Như Lai. Cho nên nói: "Như chỗ tháp miễu của Phật".

Lòng thanh tịnh mà nói kinh này, khiến cho thính giả trừ lòng mê vọng, tỏ ngộ bổn lai Phật tánh, thường giữ sự chơn thiệt thì cảm phục đến Thiên, Nhơn, A tu la, Nhơn, Phi nhơn, các đạo cũng đều đến cúng dường người trì kinh ấy.

Vương Nhựt Hưu giải: Nói tùy chỗ nào là cả thảy những chỗ.

Bằng có người thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết, thì công đức oai nghi lực thiệt rất lớn, cho nên chỗ đó thành tháp miễu, mà cả thảy mỗi người và Thiên đạo, A tu la đạo  cũng đều cung kỉnh.

A tu la  có ba thứ: một thứ thuộc về cõi Trời; một thứ thuộc về cõi người; một thứ thuộc về cõi súc sanh. Đại khái cũng như người, nhưng lòng tham sân cũng còn trọng, nên phải thác sanh về loại ấy. Hễ có phước lớn thì sanh về cõi Trời. Phước nhỏ sanh về cõi người, bực hạ thì sanh về súc sanh.

Tăng Nhược Nột  giải: Tháp miễu  nói đủ thì là: Tháp bà, là phần mộ hay là mả tròn - Miễu  là chi đề, chỗ thờ cốt Phật.

Lý Văn Hội giải: Tùy thuyết  là lòng không phân biệt, các lý thuyết, tùy chỗ khác nhau, gặp phàm thì nói phàm, còn gặp Thánh thì nói Thánh.

Đương tri thử xứ  là nói cái tâm ấy -  Như Phật tháp miễu  là bằng người chỉ tham danh lợi lòng không thanh tịnh mà nói kinh này, thì trở lại đọa vào  luân hồi  chớ có ích chi. Như lòng thanh tịnh thì phải vắng lặng chẳng khởi  vọng niệm. Dùng lòng không  sở đắc  không  tri giải  ấy mà nói kinh này khiến cho những thính giả sanh lòng thanh tịnh, không các  vọng niệm  mới gọi là  cúng dường, thì tuy huyễn thân  tức là Pháp thân. Trong ấy có hiện toàn thân Xá lợi  của  Như Lai, cảm phục đến cõi Thiên, Nhơn đều phải cung kỉnh, nào có khác chi là tháp miễu.

61.-ÂM:

Hà huống hữu nhơn tận năng thọ trì đọc tụng!

Tu Bồ Đề! Đương tri thị nhơn thành tựu tối thượng đệ nhứt hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ, tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử.

NGHĨA:

Huống chi, là người thọ trì đọc tụng toàn cả kinh này!

 - Tu Bồ Đề! Phải biết người ấy thành tựu đặng cái pháp tối thượng đệ nhứt ít có. Bằng như chỗ nào có kinh điển này, tức có Phật, hoặc như bực đệ tử tôn trọng vậy.

 

Giải : Lục Tổ giải: Tự tâm tụng đặng kinh này, tự tâm rõ đặng kinh này, tự tâm thể đặng cái lý không chấp trước, tuy ở chỗ nào cũng thường tu theo hạnh Phật, thì tự tâm tức là Phật. Cho nên nói: "Ở các chỗ ấy tức là có Phật".

Vương Nhựt Hưu giải: Tôn trọng đệ tử :đệ tử đặng tôn, đặng trọng, là thuộc về bực đại đệ tử, như Bồ Tát v.v...

Bằng hay thọ trì đọc tụng, thì như có Phật cùng đại đệ tử ở đó vậy.

Tăng Nhược Nột giải: Kinh  là Pháp Bảo.

Tức vi hữu Phật :Phật Bảo.

Nhược tôn trọng đệ tử :Tăng Bảo.

Kinh điển sở tại chi xứ :Tam Bảo ở chung lại.

Đệ tử : là sự học thì sau thầy, nên nói đệ; sự hiểu bởi thầy mà sanh ra, nên nói  tử.

Lại nói: Dùng theo lễ phụ huynh mà thờ thầy, nên nói đệ tử.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Ba la mật lục độ, Công đức lớn hằng hà.

Kệ bốn câu thường tụng, Báu vô số khó quá

Pháp môn đều rõ thấu, Cảm phục đến Tu la,

Kinh sám hằng tôn tặng, Thinh danh tợ Phật Đà.

 

Lý Văn Hội giải: Thành tựu  là thấy tánh không nghi - Tối thượng đệ nhứt  v.v... là Phật với chúng sanh vốn không sai khác.

Bằng lòng thường thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, không các vọng niệm, thì bấy giờ chắc đặng thành Phật.

Cao Thiền sư giải: Thân, khẩu, ý thanh tịnh, ấy là Phật xuất thế; thân, khẩu, ý không tịnh, ấy là Phật diệt độ.

Sở tại chi xứ v.v... là như cả thảy trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, lòng không  khởi diệt, rỗng rang thanh tịnh, thường giữ theo hạnh Phật, niệm niệm tinh tấn, không có xao lãng, thì chỗ ấy tự tâm là Phật. Ấy là con nhà Phật, cho nên mới đáng tôn trọng.

 

Lại nói:

Tức tâm là Phật, Phật đây nè!

 Tìm mách nơi ngoài thiệt quá mê.

 Nhứt niệm rỗng rang về bổn địa,

 Dễ như rửa cẳng bước lên ghe.

 

Lại nói: Tâm tức là Phật vốn không Phật khác, Phật tức là tâm vốn không tâm khác; ví như bàn tay nắm, như nước thành sóng; sóng tức là nước, nắm cũng bàn tay.

Ông Vô Nghiệp Thiền sư hỏi ông Mã Tổ: "Thế nào tức tâm là Phật?".

Đáp: "Tại ngươi không rõ cái tâm ấy, ngoài ra thì không có vật chi, mê tức chúng sanh, ngộ tức Phật, ví như bàn tay nắm, nắm cũng bàn tay". Dứt lời Sư liền ngộ.

Ông Tăng hỏi Ông Mã Tổ:

 - Thế nào là Phật?

Đáp: - Tức tâm là Phật.

 

Ông Bách Trượng hỏi Ông Trường Khánh:

 - Thế nào là Phật?

Đáp: - Cỡi trâu tìm trâu.

 

Ông Tăng hỏi Ông Thủ Sơn Hòa Thượng:

 - Thế nào là Phật?

Đáp: - Nàng dâu cỡi lừa, mẹ chồng giắt trống.

 

Ông Sơn Khuê Thiền sư có lời tụng :

 

Nhỏ gọi nàng dâu lớn mụ gia,

Cũng đồng địa rị cách không xa.

Đáng cười cỡi ngựa còn tìm ngựa.

Yên ngựa xương lừa xét chẳng ra. ([114])

 

Ông Tăng hỏi ông Từ Thọ:

 - Thế nào là Phật?

Đáp : - Gánh nước bán ở bờ sông.

 

Ông Tăng hỏi ông Thái Dương:

 - Thế nào là Phật?

Đáp : - Thế nào là chẳng phải Phật?

 

Ông Tăng hỏi ông Qui Tông:

 - Thế nào là Phật?

 - Ta nói với ngươi, ngươi tin chăng?.

 - "Hòa Thượng nói thiệt đâu dám chẳng tin".

 - "Là ngươi đó đa!".

 

Xuyên Thiền sư giải: Hiệp lại cũng như vậy.

 

Tụng:

Tợ biển thẩm sâu, như non kiên cố.

Lật lại trở qua, chẳng đi chẳng trụ.

Sư tử lông vàng nhảy khỏi hang,

Hét gầm lũ cáo cả kinh hoàng,

Dùng mưu trù hoạch không dùng võ,

Ngoại đạo tà ma thảy phục hàng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31229)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18547)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25117)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23749)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28903)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20836)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31424)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25521)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29687)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25693)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23246)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23711)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23332)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22422)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22063)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23492)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41057)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18959)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20458)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27706)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38082)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24450)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22659)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26500)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53538)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23583)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21067)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30813)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21038)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38760)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20514)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20557)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27025)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28068)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37119)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55160)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37965)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14518)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10631)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant