Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9405)
Chương hai

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI

9.- ÂM :

Thời Trưởng lão Tu Bồ Đề

NGHĨA :

 Khi ấy, Trưởng lão Tu Bồ Đề

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Thời : là thuở ông Không Sanh (Tu Bồ Đề) khởi sự hỏi Phật.

Trưởng lão  là tuổi cao đức lớn.

 Tu Bồ Đề Giải Không (Rõ lý không).

Vương Nhựt Hưu giải: Trưởng lão là tuổi cao hơn hết trong hàng đại chúng.

Tăng Nhược Nột giải: Tu Bồ Đề: là  Không Sanh, Thiện Kiết, Giải Không, Thiện Hiện  Tôn giả.

Khi mới sanh ông ra, trong nhà đều trống không (Không Sanh).

Có thầy coi tướng đoán rằng: Tướng trẻ này rất lành, rất tốt (Thiện Kiết).

Sau ông tỏ đặng pháp "Không" (Giải Không).

Ứng với lời thầy tướng đoán khi trước (Thiện Hiện).

Tăng Liễu Tánh giải: Cái tánh  Tu Bồ Đề  người người đều có. Bằng người nào tỏ thấu cái tánh vắng lặng mới gọi "Giải Không"; trọn đặng tánh không, thiệt là Bồ Đề; mới gọi "Tu Bồ Đề"; cái tánh không ấy sanh ra muôn pháp, mới gọi "Không Sanh"; cái tánh không, tùy cơ duyên mà ứng hiện, lợi người lợi vật, mới gọi "Thiện Hiện"; muôn hạnh trọn lành, mới gọi "Thiện Kiết".

Tùy đức mà ứng hiện, nên mới cưỡng danh năm tên ấy.

10.-ÂM :

Tại đại chúng trung, tức tùng tọa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước ([73]) địa, hiệp chưởng cung kỉnh nhi bạch Phật ngôn: "Hy hữu Thế Tôn!".

NGHĨA :

Ở> trong hàng đại chúng, liền đứng dậy đến nơi pháp tòa, trịch y nửa thân bên vai hữu, quì gối hữu sát đất, chắp tay cung kỉnh mà bạch Phật rằng : "Như đức Thế Tôn ít có!".

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Ông Tu Bồ Đề tỏ pháp "Không" bực nhứt, cho nên đến hỏi Phật trước hết.

Hữu tất trước địa: là trước dứt sạch "tam nghiệp" diệt trừ thân tâm, sửa sang nghiêm chỉnhxưng tán Phật.

Hiệp chưởng : là Tâm hiệp với đạo, đạo hiệp với tâm.

Hy hữu : là Tánh Phật ta hay bao trùm muôn pháp, không chi sánh bằng.

Tăng Nhược Nột giải: Thiên đản : là tục người Tàu, khi chịu lỗi xin tội thì ở trần, còn bên Tây Vức thi lễ thì trịch áo nửa thân mình - Phong tục hai xứ không đồng nhau.

Hữu kiên :đệ tử hầu thầy, tỏ cái phép bưng xách hoặc làm công việc cho tiện.

Hữu tất trước địa : là trong kinh Văn Thù vấn Bát Nhã có nói: "Bên hữu là đạo chánh, bên tả là đạo tà. Dùng chánh bỏ tà sẽ cầu hỏi về cái hạnh chánh không tướng".

Vương Nhựt Hưu giải: Bạch: là kính thưa. Hy : là ít. Thế Tôn : là hiệu của Phật.

Trước than thở khen ngợi là ít có, rồi sau mới bạch Phật.

11.-ÂM :

Như Lai thiên hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú chúc chư Bồ Tát.

NGHĨA :

Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay giao phó dặn dò các Bồ Tát .

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai : là hiệu Phật.

Phật sở dĩ gọi là Như Lai, là bởi "Chơn tánh", cũng kêu là "Chơn như". Vậy thì, "Như" tức là "Chơn tánh".

Chơn tánh sở dĩ gọi là "Như" đó, là bởi sự sáng của nó soi khắp cả vô lượng thế giới, không chi che lấp đặng. Còn sự tỏ thì thông cả thảy nhưng việc của vô lượng kiếp, không chi mà ngăn ngại đặng. Lại hay biến hiện, cũng làm cả thảy chúng sanh, không chỗ nào mà chẳng đặng. Vậy mới thiệt là "tự như" (muốn làm sao cũng đặng).

Còn nói "Lai" là Chơn tánh hay tùy chỗ mà hiện lại, cho nên nói: Như Lai.

Tánh Chơn như vốn không tới lui, mà nói là "Lai" là bởi nó ứng hiện tại đó, cho nên nói: "Lai"  bằng có người chí thành cầu khẩn, thì có cảm ứng liền. Nếu muốn vì cả thảy chúng sanh, lập pháp dạy bảo, thì hiện sắc thân mà đến nơi ấy.

Phật, sở dĩ gọi là Như Lai đó cũng bởi  Như như là bổn thể của Chơn tánh. Còn nói là  Lai  là ứng dụng của Chơn tánh. Vậy thì, "Như Lai" là gồm đủ cả thể và dụng của Phật mà nói. Tóm lại kinh này thường nói Như Lai là vậy đó.

Tiếng Phạm nói  Bồ Tát, vốn là  Bồ đề tát đả. Muốn cho gọn câu văn và dễ xưng hô, nên nói tắt là Bồ Tát.

Bồ đề : là Giác, Tát đả : là Hữu tình. Hữu tình tức là chúng sanh. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật; bởi có sanh phải có tình. Duy có bực Bồ Tát ở trong bọn hữu tình mà đặng tỏ ngộ mà thôi. Cho nên nói: Giác hữu tình.

Nói đại khái, hễ có tình thì có vọng tưởng. Bực Bồ Tát chưa dứt hết tình tưởng, duy có tu đến bực Phật mới dứt hết tình tưởng đặng. Cho nên Phật, riêng gọi là Giác, mà chẳng gọi là Hữu tình.

Phật nói: "Cả thảy chư Phật đều đặng giải thoát các lòng vọng tưởng, chẳng còn mảy mún chi". Cho nên nói: "Phật".

Phật lại nói: "Mười một bực Bồ Tát  đều có hai thứ ngu si". Ngu si đó há không phải là cái tình vọng tưởng hay sao? - Vậy nên, Bồ Tát mới gọi là hữu tình, chớ chẳng đặng riêng gọi là Giác.

Trần Hùng giải: Bồ Tát : là người vâng giữ giáo pháp của Phật. Chư Bồ Tát : là chỉ hết đại chúng mà nói. Đại chúng nghe Như Lai  thuyết pháp, rất nên tin tưởng kính vâng.

Thoảng như Phật chẳng mở lòng  từ bi  che chở, đoái tưởng, khiến cho tin tưởng pháp ấy, ắt bị loài ma dữ thừa dịp mà khuấy rối, và chẳng dạy bảo, khiến cho kính vâng pháp ấy, thì pháp mầu có khi phải dứt mất. Cho nên ông Tu Bồ Đề ở trong hàng đại chúng, trước khi nghe  thuyết pháp, không  còn lo chi  khác hơn là cầu xin Như Lai mở lòng  từ bi  mà đoái tưởng, dạy bảo.

 Lý Văn Hội giải: Như Lai: Như  thì chẳng sanh, Lai  chẳng diệt; chẳng phải tới, chẳng phải lui, chẳng phải ngồi, chẳng phải nằm, lòng hằng vắng lặng, rỗng rang thanh tịnh.

Thiện hộ niệm: là hay dạy các người, chẳng dấy  lòng vọng  niệm.

Chư Bồ Tát, chư : là chẳng phải một, Bồ: là soi, Tát: là thấy. Nghĩa là: soi thấy  năm uẩn  đều không -  Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Bồ Tát :Đạo tâm. Chúng sanh : là người thường giữ tánh cung kỉnh, cho đến các loài: có vảy, vỏ, cánh, lông, cùng loài dòi, trùng, dế, kiến, đều dấy lòng ái kỉnh, chẳng hề khinh dễ. Nên Phật thường nói các loài bò, bay, máy, cựa, đều có tánh Phật là vậy.

Thiện phú chúc : là mỗi niệm đều  tinh tấn, chớ cho nhiễm chấp. Niệm trước vừa nhiễm, niệm sau liền  giác ngộ, chớ cho nó tiếp tục nhau.

Xuyên Thiền sư giải: Như Lai chưa thốt một lời nào, cái gì mà Tu Bồ Đề lại thở than khen ngợi?

Có đủ "nhãn lực" hơn trong bọn, nên dùng "nhãn lực" mà xem.

Tụng:

Cách non thấy khói hay rằng lửa,

Khuất vách lò sừng vốn biết trâu.

Ngồi dưới trời trên trời sộ sộ,

Đông Tây hà tất bói khoa cầu.

12.-ÂM :

Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, phát A nậu đa la tam miệu bồ đề tâm...

NGHĨA :

Bạch đức Thế Tôn! Như có trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Thiện nam tử là người có lòng "chánh định". Thiện nữ nhơn : là người có lòng "chánh huệ". Nghĩa là nói cả thảy đều có lòng quyết đoán chắc chắn, hằng không lui sụt. Ấy là tỏ ra cái nghĩa "phát tâm".

A: Vô, là không có lòng ô nhiễm.

Nậu đa la: Thượng, là trong  ba cõi không ai sánh bằng.

Tam: Chánh, là chánh kiến.

Miệu: Biến, là cả thảy các loài hữu tình, không chỗ nào là chẳng có; Bồ Đề : Tri,là biết cả thảy loài hữu tình đều có tánh Phật.

Vương Nhựt Hưu giải: A, Nậu Đa la  Thượng, Tam Chánh, Miệu Đẳng, Bồ đề Giác.

A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là: Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là "Chơn tánh, mà Chơn tánh tức là Phật".

Phật: Giác. Nói tắt là "Giác", mà nói rõ là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Chơn tánh không có chi trên đặng, nên nói: Vô thượng. Trên từ chư Phật, dưới đến loài bò, bay, máy, cựa, tánh ấy đều bình đẳng như nhau, nên nói: Chánh đẳng  - Cái tánh giác ấy, viên mãn sáng soi không chênh, không kém, nên nói: Chánh giác.

Sở dĩ thành Phật là đặng cái tánh ấy. Bởi vậy mới siêu thoát đặng ba cõi, chẳng còn luân hồi nữa.

Tăng Nhược Nột giải: Bồ Tát trước khi tu hành đều có phát lòng rộng lớn như vậy cả.

13.-ÂM :

Vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?

NGHĨA :

Nên trụ thế nào? Nên hàng phục cái vọng tâm thế nào?

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Ưng : là nên, Vân: là nói; Vân hà : là nói làm sao (Thế nào). Vân hà ưng trụ : là nên trụ chỗ nào.

Vân hà hàng phục kỳ tâm : là nên hàng phục cái vọng tâm thế nào.

Tăng Nhược Nột giải: Tu Bồ Đề có hỏi hai điều:

1. - Chúng sanh phát lòng Vô thượng, muốn cầu pháp Bát Nhã, thế nào là trụ đặng chỗ đế lý  (lý chắc)?

2. - Hàng phục cái vọng tâm, thế nào mà diệt trừ đặng sự hoặc loạn?

Những lời nói trong bộ kinh này, đều chẳng ngoài cái lý "hàng trụ" ấy.

Lý Văn Hội giải: Vân hà hàng phục kỳ tâm: là ông Tu Bồ Đề gọi kẻ phàm phu vọng niệm, phiền não không ngằn. Vậy phải nương pháp chi mà điều đình và hàng phục cho đặng?

Xuyên Thiền Sư giải: Lời hỏi ấy, bởi đâu mà ra?

Tụng:

Ngươi vui ta chẳng vui

 Ngươi thẹn ta không thẹn,

 Ải Bắc thẩn thơ nhàn;

 Ổ xưa rù quến én,

 Xuân hoa thu nguyệt ý không ngằn,

 Mình biết lấy mình lãnh noản.

14.-ÂM :

Phật ngôn: Thiện tai! Thiện tai! Tu Bồ Đề như nhữ sở thuyết: Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú chúc chư Bồ Tát...: Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.

NGHĨA :

Phật khen: Đáng khen cho! Đáng khen cho! Tu Bồ Đề này! Theo lời Ông nói: Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay giao phó dặn dò các Bồ Tát... Vậy nay ông hãy lóng nghe. Ta đáng vì ông mà nói.

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Như nhữ sở thuyết: là Phật khen ông Tu Bồ Đề hay biết ý Phật, khéo dạy mọi người chẳng dấy vọng niệm lòng hằng tinh tấn, chớ cho nhiễm chấp các pháp tướng.

Đế thính : Đế cũng kêu là liễu (tỏ). Ông phải tỏ thấu "thinh trần", xưa nay chẳng sanh, chớ chấp theo tiếng nói; phải xét cho kỹ rồi sẽ nghe theo.

Vương Nhựt Hưu giải: Đế : là xét, là nói: nghe cho chín chắn.

15.-ÂM :

Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, phát A Nậu Đa La Tam miệu tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm. Dủy nhiên Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.

NGHĨA :

Như trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên trụ như vậy, nên hàng phục cái vọng tâm như vậy. Vâng, vâng, bạch đức Thế Tôn! Con nguyện hết lòng muốn nghe .

 

Giải : Lý Văn Hội giải: Ưng như thị trụ: là Như Lai muốn khiến cái lòng chúng sanh, chẳng sanh chẳng diệt, rỗng rang thanh tịnh mới thấy tánh đặng.

Hàng Cư sĩ giải:

Tụng:

Người đời trọng của báu,

Ta quí sát na tịnh.

Của báu rối lòng người,

Tịnh rồi hẳn thấy tánh.

 

Tiêu Diêu Ông giải: Lòng phàm phu động mà tối tăm, lòng Thánh nhân tịnh mà sáng suốt.

Lại nói: Kẻ phàm phu nào tâm cảnh thanh tịnh, là cõi tịnh của Phật, còn tâm cảnh uế trược, là cõi trược của ma.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Kẻ phàm phu phần nhiều bị cảnh ngại lòng, sự ngại lý, hằng muốn trốn cảnh an lòng, bỏ sự theo ; đâu biết tại lòng ngại cảnh, lý ngại sự, chớ kỳ thiệt: Lòng không cảnh mới không, lý dứt sự mới dứt. Chẳng nên dụng tâm trái ngược như thế.

Lại nói, kẻ phàm chấp cảnh, người trí chấp lòng. Lòng, cảnh đều không, mới thiệt chơn pháp. Quên cảnh còn dễ, quên lòng rất khó. Người bằng chẳng dám quên lòng, e sa về chỗ "không", hết nơi tìm kiếm; chớ chẳng biết cái không vốn chẳng phải không trong ấy hẳn có một cái chơn pháp giới.

Kẻ phàm phu đều theo cảnh sanh lòng, mới có sự vui chán. Bằng muốn không cảnh thì phải không lòng. Lòng không thì cảnh mới không, cảnh không thì lòng mới dứt. Bằng chẳng không lòng, cứ lo trừ cảnh, cảnh đã chẳng trừ đặng, mà càng lại càng thêm rối rắm là khác.

Muôn pháp chỉ tại nơi tâm, mà tâm chẳng có chi mà đặng. Đã không chi đặng mới thiệt là rốt ráo. Hà tất phải bo bo mà cầu giải thoát?

Như thị hàng phục kỳ tâm : Bằng thấy đặng tự tánh tức là không vọng niệm. Đã không vọng niệm tức là hàng phục cái tâm.

Dủy : là vưng dạ; nhiên: là hiệp ý. Nguyện nhạo dục văn : là lòng vui mừng, muốn nghe pháp.

Trần Hùng giải: Dủy: là dạ, nhiên: là phải vậy.

Nhan Bính giải: Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm: là phát tâm  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ưng: là nên, trụ : là còn hoài chẳng dứt.

Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: Như có trai lành gái tín nào mộ đạo, phát lòng  Bồ Đề, phải làm thế nào mà đặng còn hoài chẳng dứt? Làm thế nào mà hàng phục cái vọng tâm?

Phật bảo: Đáng khen cho! Là đáng khen! - Ấy là lời thở than khen ngợi. Phát lòng  Bồ Đề  nên trụ như vậy.... nên  hàng phục  cái tâm như vậy... Như vậy là chỉ cái việc ấy.

Dủy nhiên: là lời "vưng dạ" của ông Tu Bồ Đề, so cùng lời dạy của thầy Tăng chẳng khác ([74]).

Nhạo : là ưa muốn, là ưa muốn nghe nói pháp.

Trí Giả Thiền Sư giải:

 

Tụng:

Ít có ai như Phật,

Đạo mầu tột Niết Bàn.

Thế nào là phục trụ,

Pháp ấy rất gian nan.

nhị nghi huyền diệu,

Giáo tam thắng ([75]) rộng khoan.

Đáng khen nghe phải lòng,

Lục tặc khó che ngăn.

 

Xuyên Thiền Sư giải: Thường thường cái việc chi cũng bởi sự dặn dò cặn kẽ mà ra.

 

 

 

Tụng: 

Bảy tay, tám chơn.

Mặt quỉ, đầu thần,

Chặt mấy không rã.

Đã hoài không vàng.

Lắm lúc múa men trên thế giới.

Bổn lai chẳng khỏi điện Không vương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31275)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18569)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25151)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23782)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28951)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20876)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31457)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25554)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29730)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22532)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25730)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23295)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23734)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23358)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22461)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24321)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41116)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19007)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20503)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27733)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24508)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22722)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26556)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23620)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21101)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30851)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21070)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38798)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20556)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20609)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27066)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28088)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37165)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55178)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37983)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14567)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10649)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant