Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương ba mươi

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9862)
Chương ba mươi

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG BA MƯƠI

151.ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ tam thiên đại thiên thế giới, tối vi vi trần, ư ý vân hà? - Thị vi trần chúng, ninh vi đa phủ?". Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? - Nhược thị vi trần chúng, thiệt hữu giả, Phật tức bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà? - Phật thuyết vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng. Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới thị danh thế giới.

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín dùng tam thiên đại thiên thế giới, đập nát ra làm vi trần, ý ông thế nào? Những vi trần ấy thiệt là nhiều chăng?".

 Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều".

 Bởi cớ sao? Nếu những vi trần ấy, mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi trầnSở dĩ sao? - Bởi Phật nói những vi trần nhưng chẳng phải vi trần, chỉ cưỡng danh là vi trần.

 Bạch đức Thế Tôn! Còn Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Vi trần chúngvi trần thiệt nhiều như thế.

Tu Bồ Đề đáp "Rất nhiều", rồi lại bạch đức Thế Tôn mà tự hỏi "bởi cớ sao", là vi trần chúng cớ sao rất nhiều, lại tự đáp: "Bằng vi trần chúng thiệt có, thì Phật chẳng nói là vi trần chúng", là bởi  chơn tánh  thiệt có, nhưng chẳng nói đặng. Còn vi trần chúng chẳng phải thiệt có, nên Phật mới nói: "Phàm sự chi mà nói đặng, đều là hư vọng cả". Duy có  chơn tánh  là chơn thiệt nên chẳng nói đặng. Sở dĩ Phật thường nói: "Chẳng nói đặng, chẳng lấy đặng" là vậy.

Sở dĩ giả hà  là ông Tu Bồ Đề tự hỏi: "Vi trần chúng nếu có thiệt thì Phật chẳng nói là vi trần chúng" là sao vậy? Lại tự đáp: "Phật nói vi trần chúng, là chẳng phải vi trần chúng, chỉ cưỡng danh là vi trần chúng", là nói: Phật nói vi trần chúng là chẳng phải chơn thiệt, chỉ có hư danh vậy thôi, rồi nói nữa: "Như Lai nói tam thiên thế giớithế giới cũng chẳng phải chơn thiệt, cũng chỉ có cái hư danh". (Có giải trong phần thứ mười ba).

Lý Văn Hội giải: Vi trần  là vọng niệm, thế giới biệt danh của sắc thân. Vi trần là nhân, thế giới là quả. Nói vi trầnthế giới, tức là nói nhân quả vậy.

Chơn tánh của tự mình không nhân, không quả, bởi tùy sáu đường  chúng sanh mà làm nhân quả, thì tự tánh là nhân, sáu đường là quả.

Nên biết đặng vi trần khởi ở thế giới, luân hồi  bởi nơi một niệm. Tuy thấy lành nhỏ chẳng nên chấp trước, tuy gặp dữ nhỏ hẳn phải diệt trừ.

Vả chăng chúng sanh bởi tại vọng niệm mà khởi ra cái nghiệp tham, sân, si nên phải chịu cái quả mộng huyễn của ba cõi, cũng như vi trần kia mà thành ra thế giới vậy.

Nhân quả nguyên bởi vọng tâm, mình làm mình chịu. Nhứt niệm ngộ rồi tức không có vi trần; đã không vi trần thì thế giới bởi đâu mà có! Cho nên nói: "Chẳng phải vi trần chỉ cưỡng danh là vi trần, chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới".

Nếu muốn tạo ra thế giới, thì mặc dầu vi trần chúng nó xông ung, còn muốn trừ bỏ thế giới, thì giác ngộ nhơn pháp đều không, không một pháp chi mà đặng, rỗng rang thanh tịnh chẳng bị sự chuyển lay của các cảnh; cũng đều bởi tại tự mình.

Tăng Liễu Tánh giải: Phần này Phật e người sau đời mạt kiếp trùng trùng chấp trước nhân quả, chẳng chịu lìa bỏ, nên có mấy phen căn dặn ông Tu Bồ Đề.

Trong thân của mỗi người đều có cái tạp niệm vi tế, lành dữ rất nhiều, cũng ví như vi trần của đại thiên thế giới vậy. Niệm ấy không chi là chẳng phải cái ảnh hưởng hư vọng mà tạo ra, cho nên nói: "Chẳng phải vi trần chúng".

Cũng bởi tại chuyển lay cái lòng  vô minh phiền não  thành ra cái trí  vô ngại từ bi, mới vào đặng chỗ vắng lặng " tri giải " đặng sự an vui. Cho nên nói: "Chỉ cưỡng danh là vi trần chúng".

 

Xuyên Thiền sư giải: Nếu không lặn xuống nước, đâu biết người có sở trường.

Tụng:

Bụi trần vừa khởi lấp hư không,

Đập nát tam thiên số chẳng cùng.

Giả lão này không thâu thập đặng,

Mặc dầu theo gió mặc theo giông.

152.ÂM:

Hà dĩ cố? - Nhược thế giới thiệt hữu giả, tức thị nhứt hiệp tướng.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Nếu thế giới mà thiệt có, thì tức là tướng nhứt hiệp.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Hà dĩ cố  là Tu Bồ Đề tự hỏi: "Bởi sao mà thế giới không phải chơn thiệt", rồi tự đáp: "Bằng thế giới thiệt có tức là  tướng nhứt hiệp". Tướng nhứt hiệp  tức chơn tánh. Chơn tánh khắp cả hư không thế giới, không có hình tướng.

Nhứt: là không chia làm hai đặng, hiệp : là không chẻ cho lìa đặng; vốn chẳng có tướng chi, chỉ cưỡng danh là tướng.

Nếu cho thế giới là thiệt có thì tức là chơn tánh? Duy có chơn tánh mới thiệt có mà thôi. Sao vậy? - Là bởi từ đời  vô thỉ  đến nay còn hoài không biến hoại, tự nhiên chẳng phải giả hiệp. Còn cả thảy sự hư huyễn đều là chẳng phải cái bổn nguyên của chơn tánh, thì đâu phải là có thiệt. Vậy thì thế giới đâu sánh với chơn tánh đặng, là bởi thế giới là giả hiệp; đến khi kiếp số hết rồi cũng phải biến hoại, thì cũng đều là hư huyễn, không phải chơn thiệt. Cho nên không thế sánh với chơn tánh đặng.

Lý Văn Hội giải: Vi trần  là nhân, thế giới là quả. Nếu chấp nhân quả là thiệt có thì bị các tướng buộc ràng, cho nên nói: Tướng nhứt hiệp.

Kim Hải Quang Như Lai giải: Thế giới  là Như Lai nói Phật  Lô Xá Na, trụ trì cả tam thiên đại thiên thế giới, sắc thân hóa sanh cội Bồ đề, hiệu là  Thế giới Liên Hoa Tạng, chẳng phải là nói cái thế giới ngăn ngại kia đâu!

Nhứt hiệp tướng  là Phật tánh trong thân của cả thảy chúng sanh với Pháp thân Lô Xá Na, cho nên nói: Tướng nhứt hiệp.

Tụng:

Thuyết pháp Liên Hoa Tàng của Phật.

Tam thiên thế giới nghe tường tất.

Lý mầu Bồ Tát hiểu phân minh,

Phàm tục chấp mê nên thất lật.

153.ÂM:

Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng tức phi nhứt hiệp tướng, thị danh nhứt hiệp tướng".

NGHĨA:

Như Lai nói tướng nhứt hiệp, nhưng chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng là ông Tu Bồ Đề nói Phật thường gọi chơn tánh là  tướng nhứt hiệp.

Tức phi nhứt hiệp tướng  là chơn tánh ví như hư không, chẳng có vật chi. Như "một" thì chẳng hai, "hiệp" thì chẳng lìa.

Thị danh nhứt hiệp tướng  là cưỡng danh là tướng nhứt hiệp

Phàm nói: tức phi đều là thiệt không, thị danh đều là cưỡng danh.

Lý Văn Hội giải: Chẳng chấp thiệt có, cũng chẳng chấp thiệt không, nơi tướng mà lìa tướng, cho nên nói: Chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp.

154.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Nhứt hiệp tướng giả, tức thị bất khả thuyết.

NGHĨA:

"Tu Bồ Đề! Tướng nhứt hiệp ấy, nói chẳng đặng.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phật thường nói chơn tánh là tướng  nhứt hiệp, nên ông Tu Bồ Đề mới cho là thiệt có. Phật lại bảo ông Tu Bồ Đề: Tướng nhứt hiệp  là chơn tánh, mà không thế nói đặng, chỉ cưỡng danh vậy thôi.

Lý Văn Hội giải: Tức thị bất khả thuyết là người học đạo phải tự tỉnh ngộ, các lý sự đều không ngăn ngại. Phàm phu cứ tham chấp sự tướng, chẳng thông lý đạo, nên nói nhân quả, thì chấp nhân quả, còn nói thế giới thì lại chấp thế giới.

155.ÂM:

Đản phàm phu chi nhơn, tham trước kỳ sự".

NGHĨA:

Chỉ vì kẻ phàm phu hay tham chấp sự tướng".

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phật nói kẻ phàm phu chẳng tỏ ngộ chơn tánh, lại hay chấp căn trần sự tướng trong chơn tánh hiện ra, rồi nhận căn trần ấy là "thiệt ta", nên phải đắm chìm trong lục đạo, không bao giờ thoát khỏi, cho nên nói: Phàm phu.

Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Lìa các tướng hòa hiệp mới là Vô thượng giác".

Phật gọi là Giác: ngoại giác  lìa cả thảy có tướng, nội giác  lìa cả thảy không tướng; nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không. Đặng cái lý nhiệm mầu không tướng của chơn không, nên nói là Phật.

Lục Tổ giải: Nhứt hiệp tướng  là mắt thấy sắc thì mến, nên hiệp với sắc, tai nghe thinh thì mộ, nên hiệp với thinh v.v... Khi  Lục trần  tan hết, tức là chơn thế giới. Hiệp lại, ấy là phàm phu, còn tan ra ấy là chẳng phải phàm phu.

Phàm phu đối với cả thảy pháp đều hiệp, Bồ Tát đối với cả thảy đều chẳng hiệp.

Bởi cớ sao? - Bởi hiệp thì còn trói buộc, nên khởi ra sanh diệt, còn tan thì đặng giải thoát, nên không có sanh diệt. Nếu còn bị trói buộc trong đường sanh diệt, ấy là phàm phu. Bởi vậy trong kinh nói: "Chỉ có kẻ phàm phu mới là tham chấp sự tướng".

Nhan Bính giải: Vi trần tuy nhiều, chưa đủ làm nhiều, thế giới giả hiệp cũng là không thiệt. Nếu nói thiệt có vi trầnthế giới, thì đều chấp tướng cả hai. Nó đã là tướng, ta lại chấp tướng, thì hai tướng hòa hiệp, ấy là tướng nhứt hiệp . Cho nên nói: "Tướng nhứt hiệp  ấy, nói chẳng đặng, chỉ kẻ phàm phu chưa tỏ ngộ, mới vọng sanh tham chấp".

Viên Ngộ Thiền sư giải: Bao giờ các ngươi, trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh, ngoài chẳng thấy có núi sông đại địa, trong chẳng thấy có sự thấy nghe hiểu biết, tốt xấu dở hay, nhồi lại làm một khối, còn mỗi mỗi đều buông bỏ thì không còn thấy cái chi khác nữa.

Tiêu Diêu Ông giải: Người học đạo, chỉ phải tỏ ngộ cái lòng minh linh, ấy là nguồn cội. Bằng có niệm chi vọng tưởng đều là trần cấu, chớ cho nó nhiễm trước thì sẽ chứng đặng  Pháp thân thanh tịnh.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Báo ứng không chi khác, Giới trần cũng chẳng ngoài.

Có nhân đâu quả có, Ai trước lại sau ai.

Sự phải tường nguyên một, Lý nên diệt cả hai.

Vô sanh như muốn rõ, Mau xét thấu do lai.

Xuyên Thiền sư giải:

 

Nắm tóm lại, mở bùng ra,

Chỉ huy tướng lịnh, binh gia vận hành.

 

Tụng:

Một khối thành hai mảnh,

Đập tan trở lại tròn.

Nhai nghiền đừng cắn bể,

Mùi vị mới hoàn toàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31276)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18574)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25153)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23784)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28956)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20883)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31459)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25555)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29730)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22533)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25733)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23297)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23735)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40619)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23359)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22464)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23518)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24323)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41119)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19010)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20505)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27737)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38134)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24510)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22731)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26557)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53594)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23623)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21101)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30859)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21070)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38798)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20562)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20610)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27066)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28088)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37166)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55181)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37984)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14568)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10654)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant