Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tịnh Độ Giáo Khái Luận

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 32736)
Tịnh Độ Giáo Khái Luận


TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987 tại chùa Pháp Ấn, Nam California, Hoa Kỳ.

Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011 tại Tu viện Huệ Quang, Sài Gòn, Việt Nam.

 

 LỜI GIỚI THIỆU

Tịnh Độ Giáo Khái Luận do Tiến sĩ Vọng Nguyệt Tín Hanh, vị học giả Tịnh độ tông Nhật Bản nổi tiếng trong giới Phật học thế giới của thế kỷ XX, trứ tác. Tác phẩm này được Pháp sư Ấn Hải đang hoằng pháp tại Mỹ quốc dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987.

Vọng Nguyệt Tín Hanh (1869 – 1948), người huyện Tân Tả. Ông tu học tại Đại học Tịnh Độ TôngTỉ Duệ Sơn, lần lượt làm giáo sư Cao đẳng Phật học viện Tịnh Độ Tông, hiệu trưởng trường Đại học Đại Chính. Ông có tham dự biên tập Tịnh Độ Tông Toàn Thư, Đại Nhật Bản Phật Giáo Toàn Thư. Trong thời gian 30 năm, từ năm 1906 đến 1936, ông biên soạn bộ Phật Giáo Đại Từ Điển và Phật Giáo Niên Đại Biểu. Đây là các bộ sách công cụ thiết yếu cho người nghiên cứu Phật học. Ông trứ tác các tác phẩm: Nghiên cứu Tịnh Độ giáo, Lược thuật Tịnh Độ giáo lý sử. Khởi nguyên và phát triển của Tịnh Độ giáo, Sinh hoạt tín niệm, Tịnh Độ giáo khái luận …

Pháp sư Ấn Hải (1927 - ), người huyện Như Cao, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, họ Lưu, hiệu Viên Tu, xuất gia với pháp sư Trí Minh ở chùa Định Huệ nơi quê nhà. Mùa xuân năm 1947, Sư thọ giới Cụ Túc tại núi Bảo Hoa, Nam Kinh, sau đó theo học tại Phật học viện Thiên Ninh ở Thường châu. Sư đã từng thân cận các vị Đại sư Từ Hàng, Ấn Thuận. Năm 1967, Sư du hóa các nước Đông Nam Á. Năm 1976, sư sang Mỹ giảng kinh Di-lặc thượng sinh và hiện nay Sư đang hoằng hóa tại Mỹ. Sư trứ tác Di-lặc thượng sinh kinh giảng ký, phiên dịch các tác phẩm: Trung Ấn Thiền tông sử, Trung Quốc Tịnh Độ giáo lý sử, Phật giáo duy tâm luận khái luận, Tịnh Độ giáo khái luận…

Sách này gồm 21 chương, mở đầu tác giả khẳng định Tịnh Độ giáo là tinh hoa của Phật giáo Đại thừa, đi sâu vào nội dung, chủ yếu luận thuật về khởi nguyên và phát triển của giáo lý Tịnh Độ. Trải qua thời gian gần hai nghìn năm từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc, đến đời Đường (thế kỷ VII) ngài Viên Trân mang Tịnh Độ giáo vào Nhật Bản và từ đó phát triển mạnh mẽ đến ngày nay dĩ nhiên có nhiều chuyến biến. Mười chương đầu, tác giả phân tích và đối chiếu giáo nghĩa các kinh như kinh Đạo hành bát-nhã, kinh Phóng quang bát-nhã, kinh Bát-chu tam-muội đến ba kinh Tịnh Độ kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, kinh A-di-đà, và kinh Duy-ma-cật, kinh Hoa nghiêm, kinh Pháp hoa cho đến các luận như luận Đại Tỳ-bà-sa của bồ-tát Long Thọ, luận Nhiếp đại thừa của bồ-tát Vô Trước, luận Vãng sanh của bồ-tát Thế Thân. Mười chương tiếp theo, tác giả luận thuật các quan điểm khác nhau về các vấn đề như: nan hành đạo, dị hành đạo, thân Phật, cõi nước Phật, nhân hạnh vãng sinh Tịnh Độ, tự lực, tha lực, một niệm, mười niệm v.v… qua chủ trương của các ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn, Ca Tài, Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Huệ Nhật, Pháp Thường, Trí Nghiễm …ở Trung Quốc, đặc biệt là ở Nhật Bản với ngài Pháp Nhiên chủ trương thuyết ‘tuyển trạch bản nguyện niệm Phật’. Đồng thời và sau ngài Pháp Nhiên, giáo nghĩa Tịnh độNhật Bản phát triển rầm rộ với nhiều thuyết mới của các ngài Long Khoan, Thánh Quang, Lương Trung, Chứng Không, Trường Tây, Hạnh Tâyđặc biệt là ngài Thân Loan thành lập Tịnh độ Chân Tông. Cuối cùng là chương tổng kết.

Với sắc thái đa dạng như thế, đã được tác giả điểm qua và bình luận một cách sắc bén và xác đáng, khiến người đọc vô hình trung bị thuyết phục. Đọc sách này không những biết được các điều trọng yếu về giáo nghĩa Tịnh Độ mà còn thấy được toàn cảnh của tông Tịnh độ từ cổ đại đến hiện đại. Tác giả là người chuyên tu học và giảng dạy giáo lý Tịnh Độ nên có chính tri chính kiến, không làm hỏng tín tâm của người tu Tịnh độ, mặc dù đây là sách nghiên cứu học thuật. Do đó trong đoạn kết, ông nói:

“Chân thân của Như LaiTịnh độ của Ngài an trú vượt lên trên tâm cảnh của phàm phu; chẳng phải trí tuệ của loài người có thể hiểu được sự tồn tại không thể nghĩ bàn này. Người mù không thấy được ánh sáng mặt trời, mặt trăng, người điếc không nghe được tiếng sấm sét, nhưng ánh sáng mặt trời mặt trăng vẫn chiếu, sấm sét vẫn nổ. Hiện nay chúng ta tuy không thấy được chân Phật, chân độ, nhưng không thể phủ nhận sự tồn tại của chân Phật chân độ”.

Tôi trân trọng giới thiệu bản dịch này của Sư cô Viên Thắng, thành viên Ban phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam, chuyển từ Hoa ngữ sang Việt ngữ, với ước vọng sách này được lưu thông rộng rãi để mọi người biết nhiều hơn về tính đa dạng của giáo nghĩa Tịnh độbuông bỏ thành kiến, chấp nhận dị biệt và tự chọn cho mình một phương pháp phù hợp để tiến tu.

Tu viện Huệ Quang, ngày Phật Đản PL.2555 (17/5/2011)

Hòa thượng THÍCH MINH CẢNH

Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18567)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25149)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23777)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28949)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20874)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31456)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29726)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25727)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23294)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25756)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23731)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23357)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22459)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22104)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41114)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19005)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20502)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27732)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24507)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22721)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26554)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30850)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21069)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38797)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20552)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20607)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27066)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28088)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37164)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55175)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37983)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14565)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10649)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant