Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thư tịch tham khảo

27 Tháng Mười 201000:00(Xem: 17118)
Thư tịch tham khảo

THƯ TỊCH THAM KHẢO


TÀI LIỆU ĐẠI TẠNG KINH

 

Đại Tạng Kinh, ấn bản Taisho, Trung hoa Phật giáo Văn hóa quán ĐĐại Tạng Kinh Ủy viên hội ảnh ấn, 1957 (viết tắt: ĐTK).

Tục Tạng Kinh, ấn bản chữ Vạn, Trung quốc Phật giáo Hội ảnh ấn, 1967 (viết tắt: TTK).

Lục độ Tập Kinh. Khang Tăng Hội dịch, ĐTK. 152, tập 3, bổn duyên bộ thượng.

Cựu Tạp thí dụ kinh, Khang Tăng Hội dịch; ĐTK. 206, tập 4, bổn duyên bộ hạ.

Cao Tăng Truyện, Lương, Huệ Hạo; TK. 2058, tập 50, sử truyện bộ 2.

Xuất Tam tạng ký tập, Lương Tăng Hựu; TK. 2145, tập 55, mục lục bộ toàn.

Hoa nghiêm kinh truyện ký, ĐĐường, Pháp Tạng thuật; ĐTK, 2073, tập 51, sử truyện bộ 3.

Pháp hoa truyện ký, Đường, Tăng Tường; ĐTK, 2068, tập 51, sử truyện bộ 3.

Hoằng tán Pháp hoa, Đường, Huệ Tường; ĐTK. 2067, tập 51, sử truyện bộ 3.

Đại phương quảng Viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh sớ (viết tắt: Kinh Viên giác), ĐĐường, Tông Mật; ĐTK. 1795, tập 39, kinh sớ bộ 8.

Lô sơn, Tống, Trần Thuấn Du; ĐTK. 2093, tập 51, sử truyện bộ 3.

Ngủ đăng toàn thư, Thanh, Siêu Vĩnh biên tập; TTK. 2542 sử turyện bộ.

Đại Huệ Phổ Giác Thiền sư Ngữ Lục, Uẩn Văn biên; ĐTK. 1998, tập 47, chư tôn bộ 4.

Thần Tăng truyện, (khuyết danh); ĐTK. 2064, tập 50, sử truyện bộ 2.

Thanh Tự Thật tướng nghĩa Không Hải (Nhật Bổn); ĐTK. 2428, tập 87, Tục chư tôn bộ 8.

Tức thân thành Phật nghĩa, Không Hải (Nhật Bổn); ĐTK. 2428, tập 87, Tục chư tôn bộ 8.

Cảnh đức Truyền đăng lục, (gọi tắt: Truyền đăng lục); Tống, Đạo Nguyên; ĐTK. 2076, tập 51, sử truyện bộ 3.

 

II. TÀI LIỆU HÁN VIỆT LINH TINH:

 

Lục Tổ Pháp bảo đàn kinh, Linh Thao, bản dịch Văn khố Từ Bi âm; ấn quán Sen vàng, saigon, 1951.

Phật học nghiên cứu thập bát thiên, Lương Khải Siêu; Trung Hoa thư cục, Đài bắc, 1957.

Luận Đại trí độ, tập 1 và 2, Tuệ Sỹ dịch; Long mãnh tùng thư, Sàigon, 1971.

Hồ Thích văn tồn, Hồ Thích; Viễn đông thư cục, Đài Bắc 1954.

Hoàng cực kinh thế, Tổng, Thiệu Khang Tiết; ấn hành trong Tứ bộ Bị yếu, Trung hoa.

Hoa nghiêm kinh, Trí Tịnh dịch Việt; Thích Đăng Quang, chùa Hải tuệ, Sàigon, 1966.

Pháp hoa kinh, Trí Tịnh dịch Việt; Thích Đăng Quang, chùa Hải Tuệ, sàigon, 1967.

Kinh Lăng-gìa tâm ấn, Diệu Không dịch Việt; Diệu Không, sàigon, 1970.

Đại cương Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Thiện Hoa dịch; Hương Đạo, Sàigon, 1960.

Kinh Viên giác, Thiện Hoa dịch; Hương Đạo, Saigon, 1959.

Lương hoàng sám (bài tựa), Trí Quang dịch; Phật tử Huế ấn hành, 1969.

Kinh Duy-ma-cật, Huệ Hưng dịch; Phât học đường Giác nguyên, Saigon, 1952.

Kinh Chu Dịch bản nghĩa (kinh thượng và hạ), Nguyễn Duy Tinh dịch; bộ Văn hóaGiáo dục, saigon, 1968.

Nam hoa kinh I, II, III Trang Tử, Nguyễn Duy Cần dịch; Khai Trí, saigon, 1963.

Đạo đức kinh I, II, Lão Tử, Nguyễn Duy Cần dịch; Khai Trí, saigon, 1961.

Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục (cũng gọi: Thiền uyển tập anh hay Tập anh), bản Ronéo của Viện đại học Vạn Hạnh, Saigon theo bản trùng khắc của Phúc Điền Hòa thượng.

Thiền uyển thống yếu kế đăng lục (gọi tắt: Kế đăng lục), Phúc Điền Hòa thượng soạn; năm thứ 12 Tự Đức, Hà Nội, 1943.

Thiền tông Bản hạnh. Bản trực bút đại dẫn của Thanh Hanh; chùa Vĩnh Nghiêm, Bảo ĐĐại năm thứ 7.

Cao vương Quan Thế Âm kinh chú giải: Nguyên bản tại Ngọc sơn tự Hà Nội, theo bản trùng san năm Mậu đần Bảo Đại.

Khóa hư lục, Thiều Chửu dịch Việt; Hưng Long, Saigon, 1961.

Thượng Sỹ Ngữ lục (viết tắt: Ngữ Lục), Trúc Thiên dịch Việt; Tu Thư đại học Vạn Hạnh, Saigon, 1968.

Tam Tổ hành trạng, Trần Tuấn Khải dịch Việt; Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Saigon, 1971.

Hoàng Việt văn tuyển I, II, III, Bùi Huy Bích, Nguyễn Đình Diệm dịch Việt; Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Saigon 1972.

Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên, Lê Hữu Mục dịch; Khai Trí, Saigon, 1965.

Lĩnh nam trích quái, Trần Thế Pháp, Lê Hưũ Mục dịch; Saigon 1960.

Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, Cao Huy Chú dịch; Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967.

Đại Nam Nhất thống chí, Đặng Chu Kình dịch; Nha Văn hóa và Tổng Vụ văn hóa giáo dục tái bản, Saigon, 1966.

An Nam chí lược, Lê Tắc, Viện đại học Huế; Huế, 1961.

Việt sử tiêu án, Ngô Sĩ Liên, Hội Việt Nam liên lạc Văn hóa Á châu dịch; Văn hóa Á châu, Saigon 1960.

Việt nam Phật giáo sử lược, Mật Thể; Minh đức tái bản, Saigon, 1967.

Sử liệu Việt nam, Huỳnh Khắc Dụng biên soạn; Nha Văn hóaBộ Giáo dục, Saigon, 1959.

Bibliographie Annamite, B. Gaspardone, bản chỉ ấn Đại học Huế.

Phật giáo Việt nam (Le Bouddhieme en Annam), Tuệ Sỹ dịch Việt; Ban Tu thư Viện Đđại học Vạn Hạnh, Saigon, 1968.

Thiền luận I, Suzuki, Trúc Thiên dịch Việt, An Tiêm, Saigon, 1970.

Thiền Luận II. Suzuki, Tuệ Sỹ dịch Việt; An Tiêm, Saigon, 1971.

Thiền đạo tu tập, Chang Chen Chi, Như Hạnh dịch; Kinh Thi, Saigon, 1972.

Chu Dịch, Phan Bội Châu, Khai Trí, Saigon, 1969.

Lịch sử tư tưởng Việt nam, tập I, Nguyễn Đăng Thục; Bộ Văn hóa, Saigon, 1967.

Thiền học Việt nam, Nguyễn Đăng Thục; Lá Bối, Saigon, 1966.

Thiền học Trần Thái Tông, Nguyễn Đăng Thục; Nha Tu thư và Sưu khảo Viện đại học Vạn Hạnh, Saigon, 1971.

Lý Thường Kiệt, Hoàng Xuân Hãn; Tu Thư Viện đại học Vạn Hạnh, Saigon, 1966.

Văn hóa đời Lý, Ngô Tất Tồ; Khai Trí, Saigon 1960.

Văn học đời Trần, Ngô Tất Tố; Khai Trí, Saigon, 1960.

Văn học đời Lý, Lê Văn Siêu; Hướng Dương, Saigon, 1957.

Lược truyện các tác giả Việt Nam, Hà Nội 1952.

Quan Âm Thị Kính, Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích; Tân Việt, Saigon, 1953.

Từ hải, Phần Chữ Cát, Tự điển.

Các số Tạp chí:

-Vạn Hạnh: 1966, 1967 Chủ trương Thích Đức Nhuận.

- Tư Tưởng: Viện đại học Vạn Hạnh Saigon xuất bản.

-Bát Nhã: 1973 Giám đốc Hòa thượng Thích Trí Thủ

Bị Chú:

Thư Tịch Tham khảo này chúng tôi không sắp theo thứ tự A, B……. mà chúng tôi chỉ chia làm hai phần:

-Phần thứ nhất dành cho tài liệu Đại Tạng Kinh.

-Phần thứ hai dành cho tài liệu Hán Việt và linh tinh.

Riêng phần Hán Việt, chúng tôi sắp trước hết là Hán của Trung Hoa, thứ đến là Hán do người Việt viết, thứ đến nữa là tài liệu sử, sách dịch, sách viết, Tự điển và sau cùng là các tạp chí.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31295)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18583)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25164)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23798)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28963)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20895)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31465)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25576)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29743)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22542)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25743)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23307)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25762)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23762)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40629)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23364)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22485)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22107)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23523)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24346)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41135)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19019)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20513)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27748)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38148)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24519)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22742)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26571)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53605)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23633)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21126)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30866)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21074)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38810)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20568)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20621)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27078)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28102)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37176)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55197)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 38002)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14581)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10666)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant