Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VIII. Dịch truyền cảm thông

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15405)
VIII. Dịch truyền cảm thông


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

VIII. DỊCH TRUYỀN CẢM THÔNG (các bản dịch, bản được lưu truyền, những sự cảm ứng do tụng trì kinh này)

A. Các bản dịch:

Từ Phạn ngữ, dịch sang Hán văn có hai bản dịch:

 1. Bản thứ nhất mang tên Phật Thuyết A Di Ðà Kinh, do Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch vào thời Dao Tần (394-415).

 2. Bản thứ hai mang tên Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ Kinh do Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch vào đời Ðường.

 Hai bản dịch này đại đồng tiểu dị, bản dịch của Ngài Huyền Trang chi tiết hơn, nhưng kém phần bóng bẩy hơn so với bản dịch của Ngài La Thập. Hiện tại, bản được lưu truyền rộng rãi hơn cả là bản dịch của Ngài La Thập (thường gọi là bản Tần dịch).

 Ngoài hai bản dịch này, hiện còn một bản hội tập hai bản kinh trên do cư sĩ Hạ Liên Cư soạn. Ngoài Tịnh Ðộ Cư Sĩ Lâm Trung Hoa, bản hội tập này không được sử dụng phổ biến cho lắm. Theo Chúng Kinh Mục Lục, vào đời Lưu Tống, kinh này cũng được Ngài Cầu Na Bạt Ðà La dịch với tựa đề Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh nhưng đã thất truyền.

 Khi chú giải các kinh này, từ xưa đến nay, các nhà sớ giải kinh đều dùng bản của Ngài La Thập. Ngay cả đại đệ tử của pháp sư Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ khi sớ giải kinh cũng dùng bản của Ngài La Thập, có lẽ vì bản này phổ biến hơn cả.

 B. Các bản chú giải:

Từ xưa đến nay, kinh này được chú sớ rất nhiều, nhưng bị thất truyền rất nhiều. Hiện tại, chỉ còn giữ lại được một số bản chú giải như sau:

 1. A Di Ðà Kinh Nghĩa Ký, 1 quyển, do Ngài Trí Khải soạn thuật vào đời Tùy.

 2. A Di Ðà Kinh Nghĩa Thuật, 1 quyển, do Ngài Huệ Tịnh soạn vào đời Ðường.

 3. A Di Ðà Kinh Thông Tán Sớ, 3 quyển, do Ngài Khuy Cơ soạn vào đời Ðường.

 4. A Di Ðà Kinh Sớ, 1 quyển, do Ngài Khuy Cơ đời Ðường soạn.

 5. A Di Ðà Kinh Sớ, 1 quyển, do Ngài Hải Ðông Nguyên Hiểu người xứ Tân La soạn.

 6. A Di Ðà Kinh Sớ, do Ngài Trí Viên soạn vào đời Tống.

 7. A Di Ðà Kinh Nghĩa Sớ do Ngài Linh Chi Nguyên Chiếu đời Tống soạn.

 8. A Di Ðà Kinh Cú Giải do Ngài Tánh Trừng soạn vào đời Nguyên.

9. A Di Ðà Kinh Lược Giải của Ngài Ðại Hựu thời Nguyên.

 10. A Di Ðà Kinh Sớ Sao do Ngài Vân Thê Liên Trì soạn vào thời Minh.

 11. A Di Ðà Kinh Lược Giải Viên Trung Sao, 2 quyển, do Ngài U Khê Truyền Ðăng soạn.

12. A Di Ðà Kinh Yếu Giải do Ngài Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc soạn vào cuối đời Minh.

 13. A Di Ðà Kinh Yếu Giải Giảng Nghĩa của Viên Anh Pháp Sư đời Thanh.

14. A Di Ðà Kinh Thiệt Tướng của Ngài Tịnh Ðĩnh soạn.

 15. A Di Ðà Kinh Trực Giải Chánh Hạnh của Liễu Căn Toản soạn.

 16. A Di Ðà Kinh Lược Chú của Ngài Tục Pháp soạn.

 17. A Di Ðà Kinh Trích Yếu Dị Giải do Ngài Chân Tung soạn.

 18. A Di Ðà Kinh Ước Luận của cư sĩ Bành Tế Thanh soạn vào đời Thanh.

 19. A Di Ðà Kinh Thích và A Di Ðà Kinh Chú của Trịnh Trừng Ðức và Ðặng Trừng Nguyên hợp soạn.

 20. A Di Ðà Kinh Tiên Chú của cư sĩ Ðinh Phước Bảo (ông này cũng là tác giả của bộ Phật Học Ðại Từ Ðiển).

Từ bản A Di Ðà Kinh Sớ Sao, Ngài Trí Nguyện tổng kết những lời giảng của chư cổ đức đời Minh soạn ra ba tác phẩm: A Di Ðà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa, A Di Ðà Kinh Sớ Sao Vấn Biện, A Di Ðà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa.

Ngài Ðạt Mặc (không rõ thời đại) soạn lời Sao cho cuốn Yếu Giải của Tổ Trí Húc, đặt tên là A Di Ðà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao,

 Trong các bản chú giải kinh trên đây, bản Yếu Giải của Ngài Ngẫu Ích được Tổ Ấn Quang tán dương như sau: “Lý sự đều đạt đến chỗ tuyệt diệu, kể từ khi Phật thuyết kinh này đến nay, Yếu Giải là bản chú giải bậc nhất, khéo léo nhất, xác thực nhất. Ví dù cổ Phật xuất thế chú giải lại kinh này cũng chẳng thể hay hơn được nữa”. Vì thế, trong các bản chú giải kinh A Di Ðà, tác phẩm A Di Ðà Kinh Yếu Giải được lưu truyền mạnh mẽ nhất.

 Cho đến hiện tại, chư tôn cổ đức vẫn tiếp tục diễn giảng kinh A Di Ðà và trước tác rất nhiều tác phẩm mới để phu dương mật nghĩa của kinh này nhưng kiến giải đa phần vẫn dựa theo hai tác phẩm Yếu Giải và Sớ Sao là chính.

 C. Sự cảm ứng của việc trì kinh

Từ xưa đến nay, người trì tụng kinh này được cảm ứng rất nhiều, xin lược thuật một vài chuyện:

Theo Trí Ðộ Luận, có một vị tỳ kheo trì tụng kinh A Di Ðà, lúc sắp mạng chung, bảo đệ tử rằng: “A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng đều đến đón ta”. Mất rồi, đệ tử làm lễ trà tỳ, thấy cuống lưỡi của vị tỳ kheo ấy chẳng cháy, hình dáng, màu sắc vẫn tươi nguyên như khi còn sống.

Ông Ðường Thế Lương đời Tống tụng kinh Di Ðà đến mười vạn biến. Một ngày nọ bảo người nhà: “Phật đến đón ta”. Nói xong, làm lễ mà tịch. Ðêm ấy có kẻ đi buôn, ngụ bên núi Ðạo Vị, mộng thấy ánh sáng lạ lùng ở Tây Phương, phan, hoa vần vũ, âm nhạc réo rắt, trên không rền vang tiếng nói: “Ông Ðường Thế Lương đã sanh về Tịnh Ðộ”.

Ðời Tống, kẻ thảo dân Bằng Mân, thuở trẻ thích săn bắn. Một ngày nọ, đi săn gặp một con rắn to liền cầm giáo xông đến đâm. Khi ấy, rắn đang núp một gộp đá lớn, toan mổ một con bò vàng. Bằng Mân xô đá đè chết rắn. Khi được tái sanh, rắn nhiều phen tính trả thù, nhưng họ Bằng đã tu sám, niệm Phật đã lâu nên rắn chẳng làm gì được. Ðến một ngày nọ, ông thỉnh các bạn đồng tu Tịnh nghiệp tụng kinh Di Dà, ngồi chắp tay qua đời.

Ðời Tống, pháp sư Trí Tiên, hiệu Chân Giáo, trụ trì chùa Bạch Liên, suốt mười ba năm hướng về Tây niệm Phật, trong 12 thời chưa từng thiếu sót công phu. Một chiều nọ, Sư mỉm cười, sai quán đường hành nhân tụng kinh A Di Ðà. Tụng chưa xong, Sư đã an nhiên tọa hóa.

Ngài Thích Xử Khiêm đời Tống chuyên tu Tịnh Ðộ. Một tối nọ, tụng kinh A Di Ðà xong, Ngài khen ngợi Tịnh Ðộ rồi bảo với đại chúng rằng: “Tôi đã đạt vô sanh mà sanh Tịnh Ðộ”. Liền như nhập thiền định, lặng lẽ mà hóa.

Ðời Tống, bà lão họ Chung ở quận Gia Hòa, mỗi ngày tụng kinh Di Ðà mười biến, niệm Phật chẳng bỏ sót ngày nào. Một ngày nọ bà bảo con: “Ta thấy hoa sen trắng vô số, thánh chúng đến đón ta”. Rồi ngồi ngay ngắn, lặng lẽ qua đời.

Hoài Ngọc thiền sư người Ðài Châu, chuyên mặc áo vải, ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, tinh tấn niệm Phật, tụng kinh Di Ðà đến ba mươi vạn biến. Một ngày kia thấy Tây Phương thánh chúng nhiều như cát sông Hằng. Một vị tay cầm đài bạc, theo cửa sổ mà vào. Sư hỏi: “Tôi một đời tinh tấn, thề lấy được đài vàng, sao lại như thế này?” Ðài bạc liền ẩn mất. Sư càng cảm khích, tinh tấn gấp bội. Hăm mốt ngày sau, thấy Phật hiện chật cả không trung, bèn bảo đệ tử: “Kim đài đã đến đón, ta sanh về Tịnh Ðộ đây!” Rồi đọc kệ, mỉm cười mà tịch.

Năm Ðại Lịch thứ chín đời Nguyên, Tử Hoa thiền sư trụ tại chùa Quán Âm ở Nhuận Châu, tụng kinh Di Ðà suốt sáu tháng, chợt mắc bệnh. Ðêm ngửi thấy mùi hương, nghe tiếng âm nhạc, trên không có tiếng bảo: “Sự vui thô thiển đã qua, sự vui tinh tế sẽ tiếp nối. Ngài sẽ vãng sanh”. Chẳng lâu sau, sư niệm Phật viên tịch, mùi hương ngào ngạt suốt mấy ngày chẳng tan.

Ngay cả cầm thú cũng được lợi lạc do việc trì kinh này. Quán công ở chùa Chánh Ðẳng tại Hoàng Nham, có nuôi một con nhồng (tên một loài chim), thường dạy nó niệm Phật chẳng ngớt. Về sau, con nhồng chết đứng trong lồng. Quán công đem chôn, ít lâu sau, trên mộ chim mọc lên một đóa hoa sen tím. Bới đất để tìm gốc sen, thấy hoa sen ấy mọc ra từ lưỡi con nhồng.

 Sự cảm ứng của kinh Di Ðà rất nhiều, chẳng thể thuật trọn. Chúng ta là hạng phàm phu khổ não chúng sanh, muốn thoát ly biển khổ, mong vượt khỏi tam giới, thật phải nên buông bỏ vạn duyên, nhất tâm niệm Phật thì đương nhiên sẽ hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18396)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16740)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13317)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12788)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13644)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11797)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14320)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17824)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22693)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13512)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15640)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16153)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11428)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15757)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13216)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 22014)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16252)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19235)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24943)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17758)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17146)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18684)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19122)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18941)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23162)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28626)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15241)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13753)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16575)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143776)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16385)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17488)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47447)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39188)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15833)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23218)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16821)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14327)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13928)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17284)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14388)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16947)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 28028)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50244)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38543)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28582)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52246)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35891)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32923)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50849)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63761)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49759)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47571)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39421)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38485)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36603)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32243)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46717)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant