Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc

17 Tháng Năm 201506:00(Xem: 7342)
Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc

PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH CỰC LẠC

Tác giả: Larry Cappel
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Phát Nguyện Vãng Sanh Cực LạcLời người dịch

Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi. Có sanh là có tử, dường như đấy là một đề tài tiêu cực. Tôi nghĩ rằng chữ sanh chỉ tích cực khi nó đi liền với vô sanh, vãng sanh, và độ sanh.

Vô sanhthoát ly sanh tử, nhưng muốn vô sanh thì phải chứng quả vô sanh tức là quả a la hán. Còn nếu chưa chứng quả a la hán là còn sanh tử luân hồi. Nhưng để chứng quả a la hán tôi không nghĩ đấy là một chuyện dễ dàng.

Độ sanh, thì đây là hạnh nguyện của Bồ tát và Phật, là những bậc đã chứng quả, những bậc đã thoát ly sanh tử nhưng còn trở lại cõi tử sanh để hóa độ chúng sanh thoát khổ.

Duy chỉ có vãng sanh là nhờ nương nơi tha lực của Đức Phật Di ĐàPhật tử mới có thể thoát ly sanh tử một cách tương đối phổ thông hơn.

Tâm thành nguyện hướng Vô Lượng Quang

Công đức Thế Tôn khó nghĩ bàn

Sáu chữ Di Đà không tưởng khác

Chẳng tốn khảy tay đến Lạc Bang

Chứng ngôi bất thối vô sanh nhẫn

Phân thân vô số độ trần gian

Tuy vậy, trong Phật tử lại có người nghi ngờ về một cõi như vậy, người thì nói là Đức Phật không đến, như kinh tạng Nam truyền của Theravada chẳng hạn; người thì lại nói "tịnh độ duy tâm". Theo Thiền sư Nhất Hạnh thì Kinh Đại Thiện Kiến vương (Mahàsudassana sutta) của Trung A Hàmmô tả những chi tiết tương tự như cõi Cực Lạc. Đức Đạt Lai Lạt Ma thì nói rằng " Vô số ngôi sao và chòm sao mà chúng ta thấy ngày nay đã được hình thành và khám phá từ từ, nhưng điều hấp dẫn là khi dùng những viễn vọng kính càng tối tân, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều hơn và nhiều hơn những ngôi sao và sự sống. Do vậy, càng có năng lực để nhìn thấy sự vật, chúng ta càng có nhiều sự kiện hơn để nhìn thấy." Đại sư Vạn Đức Trí Tịnh thì nói rằng người tu Tịnh Độ chứng đạo thì, "Muốn về Cực lạc lúc nào thì về" đây quả là minh chứng của câu: "Lục tự Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây phương" chứ không phải là một câu để đọc lên nghe cho sướng lỗ tai.

Về điểm thứ hai là những người thuộc Bắc Tông, nhưng lại cho là "tịnh độ duy tâm" nên không có cõi Cực Lạc nên không cần cầu đến đấy, nhưng không lẽ như thế thì "ta bà duy vật" . Thật sự người ta nói như thế nhưng lại quên có món nào lại không duy tâm, như câu "ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo". Nhưng có một câu cụ thể hơn, để đáp lại câu "tịnh độ duy tâm" đấy là "tam giới duy tâm" là thế giới con người đang hiện diện. Trong bài dưới đây, nhà tâm lý trị liệu Larry Cappel cũng dùng luận chứng trên và nói rằng " chúng ta cần nhớ giáo lý về tánh không và nhớ rằng tất cả lục đạo tồn tại trong tâm thức," và để chuyển hóa tâm thức đến thế giới Cực Lạc vì " Chúng ta trải nghiệm trái đất và thế giới của chúng ta như là rất thật, và Cực Lạc (Dewachen) có thể như thật đối với chúng ta như trái đất và thế giới con người đối với chúng ta hiện nay. Chúng là thật trong một ý nghĩa tương đối: chúng rõ ràng thực tiển, là điều thật sự không thể tách rời với những gì chúng ta gọi là tánh không." Và nếu ai tin Long Thọ[1] mà không tin cõi Cực Lạc thì nghĩ cũng lạ.

Không nghi ngờ gì, thế giới ta bà hay thế giới chúng ta hiện hữu là do tập hợp nghiệp lực của tất cả chúng ta hình thành nên. Nếu chúng ta có thể chuyển hóa thế giới này thành một cõi Cực Lạc thì chúng ta không cần phải mong cầu đến Cực Lạc, mà như thế thì mỗi chúng ta cùng phát nguyện để biến thế giới chúng ta thành Cực Lạc, bằng không có những thệ nguyện bồ tát độ sinh mạnh mẽ lớn lao như vậy thì chúng ta phải phát nguyện thoát ly sinh tử khổ đau (và phải chứng quả vô sinh giải thoát) hay phát nguyện vãng sinh Cực Lạc vì như chúng ta đã biết cõi Cực Lạc do thệ nguyện của Đức Phật Di Đà tạo nên, nhưng cũng có thể nói Cực Lạc là do nghiệp thanh tịnh của chúng sinh tạo thành, nên chúng ta có thể cùng tạo nghiệp thanh tịnh,cùng tạo nhân tương ưng , cùng phát nguyện sinh để hòa nhập vào thế giới Cực Lạc. Và khi đã hoàn thành đạo nghiệp giác ngộCực Lạc thì chúng ta có thể tùy duyên hóa độ chúng sinhcõi Ta bà chứ không an nhàn nơi cõi tịnh mà thôi. Đấy là ý nghĩa tích cực của Tịnh Độ tông.

"Tịnh độ duy tâm" một câu nghe lý tưởng và hơi huyền ảo nhưng lại rất thực vì như thế chúng ta có thể chuyển hóa tâm thức chúng ta. Khi đọc Duy biểu học ngay bài đầu:

Tâm là đất gieo hạt

Bao hạt giống gieo đầy

Tâm địa cũng chính là

Toàn thể hạt giống ấy.

Vì thế chắc chắn rằng mỗi suy nghĩ tương ưng, mỗi hành vi tương ưng là mỗi bước thể nhập. Nếu có lòng tin Đức Phật Di Đà, có phát nguyện vãng sanh Cực Lạc thì mỗi câu niệm Nam mô A Di Đà Phật của tôi cũng là 'mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ[2]', một hạt giống để tạo nhân thể nhập Cực Lạc của Phật A Di Đà vậy.

Tay lần tràng hạt cõi Ta bà

Cầu nguyện thân quyến khắp gần xa

Hiện tại an vui tăng phước huệ

Mai sau hẹn gặp cõi Di Đà

Nam mô A Di Đà Phật

Thành kính dâng lên Đức Phật Vô Lượng Quang nhân ngày Thánh đản 17/11/Nhâm Thìn - 29/12/2012

Tuệ Uyển

PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH CỰC LẠC

Trong hai lời hồi hướng chúng tôi thường hát tại Sukhasiddhi chúng tôi nguyện cầu đi đến Cực Lạc vào lúc cuối cuộc đời này. Trong bài ca của Milarepa, chúng tôi hát, "Kiếp sống tới, xin cho chúng con gặp nhauthế giới Tịnh độ", liên hệ đến cõi tịnh độ của Đức Phật A Súc Bệ, và trong bài ca của Khenpo Tsultrim, "Nguyện cho quý vị được sinh ra trong cõi Cực Lạc phương Tây" là cõi tịnh độ của Đức Phật Di Đà, cũng được biết trong Phạn ngữ là Sukhavati và Tạng ngữ là Dewachen. Cực Lạc của Phật Di Đà được xem nhưcõi tịnh độ khả dĩ nhất cho con người đạt đến sự thâm nhập. Trong năm gia đình Phật[3], Đức Phật Di Đà là vị Phật chính của gia đình Hoa Sen, thường có hình trong hướng Tây của mạn đà la gia đình Phật. Mỗi Đức Phật có một cõi tịnh độ, nhưng như được dạy rằng tất cả những cõi tịnh độ khác đòi hỏi những điều kiện khó thâm nhập hơn nhiều so với cõi Cực Lạc của Đức Phật Di Đà.

ducphatadida_0

Ngày nay, những gì được gọi là pháp môn Tịnh Độ của Đạo Phật là thường thấy nhất ở những trường phái Phật Giáo Nhật Bản. Tịnh Độ tông thỉnh thoảng được gọi là trường phái "tha lực" của Đạo Phật, tập trung trên tín, hạnh và nguyện như con đường để giác ngộ. Điều này tương phản với Thiền tông một cách lịch sử tập trung hơn trên "tự lực", thực tập cần mẫn trong tham thiền và hành động để giải quyết những vấn đề của tự thân như con đường giác ngộ. Truyền thống Tây Tạng bao hàm cả những quan điểm này như hai trong nhiều phương tiện thiện xảo cho việc đạt đến giác ngộ. Trong cả hai bài ca này bởi những đại đạo sư của chúng tôi, chúng tôi được khuyến khích để phát triển niềm tin, và hồi hướng cũng như hoạt động cần mẫn trong tham thiền.

Theo những gì mà Đức Phật Thích Ca đã dạy trong kinh Tiểu bổn và Đại bổn Di Đà, nhiều kiếp xa xưa Pháp Tạng Tỳ Kheo đã phát nguyện rằng một khi đạt đến Quả Phật, tất cả những ai tin tưởng trong Ngài và trì niệm danh hiệu Ngài có thể sinh ra trong thế giới Tịnh độ của Ngài và ở đấy cho đến khi đạt đến Niết Bàn. Pháp Tạng sau đó đã dành nhiều a tăng kỳ kiếp tích tập phước đứctuệ trí cần thiết để trở thành một vị Phật. Sau đó Ngài đã dùng công đức để tạo nên cõi Cực Lạc để hoàn thành đại nguyệntrở thành Đức Phật A Di Đà. Như một kết quả của đại nguyện, cõi Tịnh độ của Ngài, Cực Lạc, hình thành hiện hữu và được xem nhưcõi tịnh độ dễ thâm nhập nhất cho chúng ta, những chúng sinh bình thường. Việc đạt đến tùy thuộc trên sức mạnh và lòng chân thành của nguyện ước để đến đấy, sự hồi hướng của chúng ta, và trong rèn luyện trong sự thực tập Phowa[4], sự thực hành chuyển hóa tâm thức. Hồi hướng đến Đức Phật Di Đà có nghĩa hồi hướng đến những gì Ngài biểu hiện: lòng từ bi vô lượng của Ngài và sự đáp ứng vô biên của thể trạng tỉnh thức đến những chúng sanh khổ đau. Trong truyền thống Kim Cương thừa chúng tôi xem Đức Phật Di Đà không tách rời với tâm tỉnh thức của chính vị đạo sư của chúng tôi.

Đức Phật Thích Ca đi đến giải thích rằng cõi Cực Lạc là môi trường lý tưởng để học tập và thực tập giáo phápđạt đến giác ngộ. Trong tiểu kinh Cực Lạc (tiểu bổn Di Đà) Đức Phật Thích Ca đã nói với đệ tử Xá Lợi Phất rằng:

Những chúng sanh ấy nghe [lời này] nên phát nguyện, 'tôi nguyện xin được sanh về nước ấy.' Và tại sao? Những người đạt đến là tất cả những người siêu việthoàn hảo, tất cả cùng đến trong một nơi. Xá Lợi Phất, người ta không thể dùng chút ít căn lành, gia hộ , đạo đức và nhân duyển để được sanh trong cõi ấy. Xá Lợi Phất, nếu có người nam lành hay nữ lành người được nghe nói đến 'A Di Đà Phật' và thọ trì danh hiệu, cho dù một ngày, hai ngày, ba, bốn, năm ngày, sáu ngày, dài như bảy ngày, với tâm không rối rắm, khi người này sắp chấm dứt đời sống, trước mặt người ấy sẽ xuất hiện Đức Phật Di Đà và tất cả các hàng Thánh Chúng. Khi lâm chung tâm người ấy không bị đảo lộn; trong cõi Cực Lạc của Phật Di Đà người ấy sẽ được tái sinh. Xá Lợi Phất bởi vì ta thấy lợi ích này, ta nói những lời này: nếu chúng sanh được nghe lời này họ nên phát lời nguyện, 'tôi sẽ được sanh trong cõi ấy.'

Sẽ hoàn toàn không đúng để nghĩ vê Cực Lạc như một vị trí vật chất, một thế giới nào đó mà chúng ta đi đến. Nhằm để thấu hiểu điều này, chúng ta cần nhớ giáo lý về tánh không và nhớ rằng tất cả lục đạo tồn tại trong tâm thức[5], điều gì đấy khó để nhớ khi những hoàn cảnh hằng ngày dường như được làm phù hợp một cách hoàn hảo theo những kiểu mẫu nghiệp chướng hoạt hóa. Từ một quan điểm tương đối, chúng tôi nói về Cực Lạc như một chốn được tạo nên bởi chư Phật vì lợi ích của chúng ta. Nhưng từ một quan điểm tuyệt đối thì Cực Lạc là cái thấy thuần khiết của chúng ta. Do vậy, khi chúng ta 'đi' đến Cực Lạc thì chúng ta không phải đang đi đến một thế giới vật chất khác biệt. Thay vì thế chúng ta đang chuyển hóa tâm thức của chúng ta đến một sự tỉnh thức mới với những nhận thức khác biệt, một thể trạng của tâm thức[6] dễ lãnh hội hơn để đạt đến giác ngộ. Cực Lạc không là một sự giác ngộ hoàn toàn, nhưng là một nơi chư Phật và Bồ Tát liên tục cung ứng những giáo pháp trong một môi trường tuyệt hảo nhất cho việc phát triển trên con đường giác ngộ. Chúng ta trải nghiệm trái đất và thế giới của chúng ta như là rất thật, và Cực Lạc hay Dewachen có thể như thật đối với chúng ta như trái đất và thế giới con người đối với chúng ta hiện nay. Chúng là thật trong một ý nghĩa tương đối: chúng rõ ràng thực tiển, là điều thật sự không thể tách rời với những gì chúng ta gọi là tánh không.

Trong kinh Đại Bổn Di Đà (Vô Lượng Thọ kinh) Đức Phật Thích Ca diễn tả trong chi tiết tỉ mỉ hơn những gì ở Cực Lạc ra sao. Nó giống như một nơi huy hoàng rực rở, nơi những con chim hát lời diễn giảng giáo Pháp, những ao hồ tuyệt đẹp tự động thay đổi nhiệt độ và chiều sâu của chúng, tất cả cây cối có hoa trái chín muồi thật ngon lành, giáo huấn Pháp bảo tự vang âm đồng thời, và nhiều nhiều chi tiết sáng chói khác nữa. Tất cả những điều này, được hoàn thành để tạo nên một môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏithực tập giáo Pháp mà không có những xao lãng như chúng ta trải nghiệm ở đây trong thế giới tham dục. Như những pháp đồ chuyên dụng, những người học hỏi một cách cần mẫn và phát triển những phẩm chất sùng tín, phước đức, trí tuệ, tất cả chúng ta đều được hoan nghênhCực Lạc. Nguyện cho tất cả chúng ta sẽ lại gặp nhauCực Lạc và khao khát như Khenpo Tsultrim chỉ dạy trong bài ca của ngài: "Và một khi sinh ra ở đấy, chúng ta hoàn tất các địa (thập địa Bồ Tát[7]) và những con đường (năm con đường: tích tập, chuẩn bị, thấy đạo, thiền định, và hoàn thành[8].)"

larry_cappelLarry Cappel là một nhà tâm lý trị liệu ở Denver và Louisville Colorada và cũng là thủ lĩnh của Community Dharma được ủy quyền bởi Tổ Chức Sukhasiddhi, một trung tâm Phật Giáo Tây Tạng. Có thể tìm hiểu thêm và liên lạc với ông theo địa chỉ sau: www.downtowndenvertherapy.com hay www.therapylouisvilleco.com

Nguyên tác: "May You Be Born in the West in Sukhavati"

Ẩn Tâm Lộ ngày 08-04-2012

Các bài liên hệ:

CUỘC ĐỜI CỦA TỔ SƯ LONG THỌ

LONG THỌ VỚI PHẬT DI ĐÀCÕI TỊNH ĐỘ

BÀI PHÁT NGUYỆN VÃNG SINH CỰC LẠC

THIÊN THÂN TỊNH ĐỘ LUẬN

THIỀN TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG

CỰC LẠCLUÂN HỒI: BẤT NHỊ TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG

TỊNH ĐỘ CHÂN TÔNG THỰC HÀNH

VỌNG TƯỞNG LUÂN HỒI

HOÀN TƯỚNG HỒI HƯỚNG

THIỀN QUÁN VỀ ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG



[1] LONG THỌ VỚI PHẬT DI ĐÀCÕI TỊNH ĐỘ

[2]Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ

Mỗi cái nhìn thấy được pháp thân

Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần

Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ - Nhất Hạnh

[3] Trung ương: Phật Tỳ Lô Giá Na, Đông phương: Phật A Súc Bệ, Nam phương: Phật Bảo sinh, Tây phương: Phật A Di Đà, và Bắc phương: Phật Bất Không Thành Tựu.

[4] THIỀN QUÁN VỀ ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG

[5] Tam giới duy tâm

[6] Tịnh độ duy tâm

[7] (1-Hoan hỉ địa, 2-Ly cấu địa, 3- Phát quang địa, 4- Diệm huệ địa, 5- Nan thắng địa, 6- Hiện tiền địa, 7- Viễn hành địa, 8- Bất động địa, 9- Thiện tuệ địa,10- Pháp vân địa).

[8] Tương đương với: Tư lương đạo, Gia hạnh đạo, Kiến đạo, Tu tập đạo, và Cứu kính đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27490)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26545)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29303)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29809)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32117)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21056)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28053)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29164)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23640)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31829)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26368)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24809)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21745)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20462)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23506)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35297)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24538)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31332)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26223)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31221)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20260)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22915)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30038)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21570)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20237)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20745)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28786)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34721)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22533)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21372)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19320)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29519)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35115)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28814)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37883)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21325)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27025)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24070)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20844)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34311)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22465)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25118)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 22947)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant