Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc

17 Tháng Năm 201506:00(Xem: 7352)
Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc

PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH CỰC LẠC

Tác giả: Larry Cappel
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Phát Nguyện Vãng Sanh Cực LạcLời người dịch

Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi. Có sanh là có tử, dường như đấy là một đề tài tiêu cực. Tôi nghĩ rằng chữ sanh chỉ tích cực khi nó đi liền với vô sanh, vãng sanh, và độ sanh.

Vô sanhthoát ly sanh tử, nhưng muốn vô sanh thì phải chứng quả vô sanh tức là quả a la hán. Còn nếu chưa chứng quả a la hán là còn sanh tử luân hồi. Nhưng để chứng quả a la hán tôi không nghĩ đấy là một chuyện dễ dàng.

Độ sanh, thì đây là hạnh nguyện của Bồ tát và Phật, là những bậc đã chứng quả, những bậc đã thoát ly sanh tử nhưng còn trở lại cõi tử sanh để hóa độ chúng sanh thoát khổ.

Duy chỉ có vãng sanh là nhờ nương nơi tha lực của Đức Phật Di ĐàPhật tử mới có thể thoát ly sanh tử một cách tương đối phổ thông hơn.

Tâm thành nguyện hướng Vô Lượng Quang

Công đức Thế Tôn khó nghĩ bàn

Sáu chữ Di Đà không tưởng khác

Chẳng tốn khảy tay đến Lạc Bang

Chứng ngôi bất thối vô sanh nhẫn

Phân thân vô số độ trần gian

Tuy vậy, trong Phật tử lại có người nghi ngờ về một cõi như vậy, người thì nói là Đức Phật không đến, như kinh tạng Nam truyền của Theravada chẳng hạn; người thì lại nói "tịnh độ duy tâm". Theo Thiền sư Nhất Hạnh thì Kinh Đại Thiện Kiến vương (Mahàsudassana sutta) của Trung A Hàmmô tả những chi tiết tương tự như cõi Cực Lạc. Đức Đạt Lai Lạt Ma thì nói rằng " Vô số ngôi sao và chòm sao mà chúng ta thấy ngày nay đã được hình thành và khám phá từ từ, nhưng điều hấp dẫn là khi dùng những viễn vọng kính càng tối tân, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều hơn và nhiều hơn những ngôi sao và sự sống. Do vậy, càng có năng lực để nhìn thấy sự vật, chúng ta càng có nhiều sự kiện hơn để nhìn thấy." Đại sư Vạn Đức Trí Tịnh thì nói rằng người tu Tịnh Độ chứng đạo thì, "Muốn về Cực lạc lúc nào thì về" đây quả là minh chứng của câu: "Lục tự Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây phương" chứ không phải là một câu để đọc lên nghe cho sướng lỗ tai.

Về điểm thứ hai là những người thuộc Bắc Tông, nhưng lại cho là "tịnh độ duy tâm" nên không có cõi Cực Lạc nên không cần cầu đến đấy, nhưng không lẽ như thế thì "ta bà duy vật" . Thật sự người ta nói như thế nhưng lại quên có món nào lại không duy tâm, như câu "ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo". Nhưng có một câu cụ thể hơn, để đáp lại câu "tịnh độ duy tâm" đấy là "tam giới duy tâm" là thế giới con người đang hiện diện. Trong bài dưới đây, nhà tâm lý trị liệu Larry Cappel cũng dùng luận chứng trên và nói rằng " chúng ta cần nhớ giáo lý về tánh không và nhớ rằng tất cả lục đạo tồn tại trong tâm thức," và để chuyển hóa tâm thức đến thế giới Cực Lạc vì " Chúng ta trải nghiệm trái đất và thế giới của chúng ta như là rất thật, và Cực Lạc (Dewachen) có thể như thật đối với chúng ta như trái đất và thế giới con người đối với chúng ta hiện nay. Chúng là thật trong một ý nghĩa tương đối: chúng rõ ràng thực tiển, là điều thật sự không thể tách rời với những gì chúng ta gọi là tánh không." Và nếu ai tin Long Thọ[1] mà không tin cõi Cực Lạc thì nghĩ cũng lạ.

Không nghi ngờ gì, thế giới ta bà hay thế giới chúng ta hiện hữu là do tập hợp nghiệp lực của tất cả chúng ta hình thành nên. Nếu chúng ta có thể chuyển hóa thế giới này thành một cõi Cực Lạc thì chúng ta không cần phải mong cầu đến Cực Lạc, mà như thế thì mỗi chúng ta cùng phát nguyện để biến thế giới chúng ta thành Cực Lạc, bằng không có những thệ nguyện bồ tát độ sinh mạnh mẽ lớn lao như vậy thì chúng ta phải phát nguyện thoát ly sinh tử khổ đau (và phải chứng quả vô sinh giải thoát) hay phát nguyện vãng sinh Cực Lạc vì như chúng ta đã biết cõi Cực Lạc do thệ nguyện của Đức Phật Di Đà tạo nên, nhưng cũng có thể nói Cực Lạc là do nghiệp thanh tịnh của chúng sinh tạo thành, nên chúng ta có thể cùng tạo nghiệp thanh tịnh,cùng tạo nhân tương ưng , cùng phát nguyện sinh để hòa nhập vào thế giới Cực Lạc. Và khi đã hoàn thành đạo nghiệp giác ngộCực Lạc thì chúng ta có thể tùy duyên hóa độ chúng sinhcõi Ta bà chứ không an nhàn nơi cõi tịnh mà thôi. Đấy là ý nghĩa tích cực của Tịnh Độ tông.

"Tịnh độ duy tâm" một câu nghe lý tưởng và hơi huyền ảo nhưng lại rất thực vì như thế chúng ta có thể chuyển hóa tâm thức chúng ta. Khi đọc Duy biểu học ngay bài đầu:

Tâm là đất gieo hạt

Bao hạt giống gieo đầy

Tâm địa cũng chính là

Toàn thể hạt giống ấy.

Vì thế chắc chắn rằng mỗi suy nghĩ tương ưng, mỗi hành vi tương ưng là mỗi bước thể nhập. Nếu có lòng tin Đức Phật Di Đà, có phát nguyện vãng sanh Cực Lạc thì mỗi câu niệm Nam mô A Di Đà Phật của tôi cũng là 'mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ[2]', một hạt giống để tạo nhân thể nhập Cực Lạc của Phật A Di Đà vậy.

Tay lần tràng hạt cõi Ta bà

Cầu nguyện thân quyến khắp gần xa

Hiện tại an vui tăng phước huệ

Mai sau hẹn gặp cõi Di Đà

Nam mô A Di Đà Phật

Thành kính dâng lên Đức Phật Vô Lượng Quang nhân ngày Thánh đản 17/11/Nhâm Thìn - 29/12/2012

Tuệ Uyển

PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH CỰC LẠC

Trong hai lời hồi hướng chúng tôi thường hát tại Sukhasiddhi chúng tôi nguyện cầu đi đến Cực Lạc vào lúc cuối cuộc đời này. Trong bài ca của Milarepa, chúng tôi hát, "Kiếp sống tới, xin cho chúng con gặp nhauthế giới Tịnh độ", liên hệ đến cõi tịnh độ của Đức Phật A Súc Bệ, và trong bài ca của Khenpo Tsultrim, "Nguyện cho quý vị được sinh ra trong cõi Cực Lạc phương Tây" là cõi tịnh độ của Đức Phật Di Đà, cũng được biết trong Phạn ngữ là Sukhavati và Tạng ngữ là Dewachen. Cực Lạc của Phật Di Đà được xem nhưcõi tịnh độ khả dĩ nhất cho con người đạt đến sự thâm nhập. Trong năm gia đình Phật[3], Đức Phật Di Đà là vị Phật chính của gia đình Hoa Sen, thường có hình trong hướng Tây của mạn đà la gia đình Phật. Mỗi Đức Phật có một cõi tịnh độ, nhưng như được dạy rằng tất cả những cõi tịnh độ khác đòi hỏi những điều kiện khó thâm nhập hơn nhiều so với cõi Cực Lạc của Đức Phật Di Đà.

ducphatadida_0

Ngày nay, những gì được gọi là pháp môn Tịnh Độ của Đạo Phật là thường thấy nhất ở những trường phái Phật Giáo Nhật Bản. Tịnh Độ tông thỉnh thoảng được gọi là trường phái "tha lực" của Đạo Phật, tập trung trên tín, hạnh và nguyện như con đường để giác ngộ. Điều này tương phản với Thiền tông một cách lịch sử tập trung hơn trên "tự lực", thực tập cần mẫn trong tham thiền và hành động để giải quyết những vấn đề của tự thân như con đường giác ngộ. Truyền thống Tây Tạng bao hàm cả những quan điểm này như hai trong nhiều phương tiện thiện xảo cho việc đạt đến giác ngộ. Trong cả hai bài ca này bởi những đại đạo sư của chúng tôi, chúng tôi được khuyến khích để phát triển niềm tin, và hồi hướng cũng như hoạt động cần mẫn trong tham thiền.

Theo những gì mà Đức Phật Thích Ca đã dạy trong kinh Tiểu bổn và Đại bổn Di Đà, nhiều kiếp xa xưa Pháp Tạng Tỳ Kheo đã phát nguyện rằng một khi đạt đến Quả Phật, tất cả những ai tin tưởng trong Ngài và trì niệm danh hiệu Ngài có thể sinh ra trong thế giới Tịnh độ của Ngài và ở đấy cho đến khi đạt đến Niết Bàn. Pháp Tạng sau đó đã dành nhiều a tăng kỳ kiếp tích tập phước đứctuệ trí cần thiết để trở thành một vị Phật. Sau đó Ngài đã dùng công đức để tạo nên cõi Cực Lạc để hoàn thành đại nguyệntrở thành Đức Phật A Di Đà. Như một kết quả của đại nguyện, cõi Tịnh độ của Ngài, Cực Lạc, hình thành hiện hữu và được xem nhưcõi tịnh độ dễ thâm nhập nhất cho chúng ta, những chúng sinh bình thường. Việc đạt đến tùy thuộc trên sức mạnh và lòng chân thành của nguyện ước để đến đấy, sự hồi hướng của chúng ta, và trong rèn luyện trong sự thực tập Phowa[4], sự thực hành chuyển hóa tâm thức. Hồi hướng đến Đức Phật Di Đà có nghĩa hồi hướng đến những gì Ngài biểu hiện: lòng từ bi vô lượng của Ngài và sự đáp ứng vô biên của thể trạng tỉnh thức đến những chúng sanh khổ đau. Trong truyền thống Kim Cương thừa chúng tôi xem Đức Phật Di Đà không tách rời với tâm tỉnh thức của chính vị đạo sư của chúng tôi.

Đức Phật Thích Ca đi đến giải thích rằng cõi Cực Lạc là môi trường lý tưởng để học tập và thực tập giáo phápđạt đến giác ngộ. Trong tiểu kinh Cực Lạc (tiểu bổn Di Đà) Đức Phật Thích Ca đã nói với đệ tử Xá Lợi Phất rằng:

Những chúng sanh ấy nghe [lời này] nên phát nguyện, 'tôi nguyện xin được sanh về nước ấy.' Và tại sao? Những người đạt đến là tất cả những người siêu việthoàn hảo, tất cả cùng đến trong một nơi. Xá Lợi Phất, người ta không thể dùng chút ít căn lành, gia hộ , đạo đức và nhân duyển để được sanh trong cõi ấy. Xá Lợi Phất, nếu có người nam lành hay nữ lành người được nghe nói đến 'A Di Đà Phật' và thọ trì danh hiệu, cho dù một ngày, hai ngày, ba, bốn, năm ngày, sáu ngày, dài như bảy ngày, với tâm không rối rắm, khi người này sắp chấm dứt đời sống, trước mặt người ấy sẽ xuất hiện Đức Phật Di Đà và tất cả các hàng Thánh Chúng. Khi lâm chung tâm người ấy không bị đảo lộn; trong cõi Cực Lạc của Phật Di Đà người ấy sẽ được tái sinh. Xá Lợi Phất bởi vì ta thấy lợi ích này, ta nói những lời này: nếu chúng sanh được nghe lời này họ nên phát lời nguyện, 'tôi sẽ được sanh trong cõi ấy.'

Sẽ hoàn toàn không đúng để nghĩ vê Cực Lạc như một vị trí vật chất, một thế giới nào đó mà chúng ta đi đến. Nhằm để thấu hiểu điều này, chúng ta cần nhớ giáo lý về tánh không và nhớ rằng tất cả lục đạo tồn tại trong tâm thức[5], điều gì đấy khó để nhớ khi những hoàn cảnh hằng ngày dường như được làm phù hợp một cách hoàn hảo theo những kiểu mẫu nghiệp chướng hoạt hóa. Từ một quan điểm tương đối, chúng tôi nói về Cực Lạc như một chốn được tạo nên bởi chư Phật vì lợi ích của chúng ta. Nhưng từ một quan điểm tuyệt đối thì Cực Lạc là cái thấy thuần khiết của chúng ta. Do vậy, khi chúng ta 'đi' đến Cực Lạc thì chúng ta không phải đang đi đến một thế giới vật chất khác biệt. Thay vì thế chúng ta đang chuyển hóa tâm thức của chúng ta đến một sự tỉnh thức mới với những nhận thức khác biệt, một thể trạng của tâm thức[6] dễ lãnh hội hơn để đạt đến giác ngộ. Cực Lạc không là một sự giác ngộ hoàn toàn, nhưng là một nơi chư Phật và Bồ Tát liên tục cung ứng những giáo pháp trong một môi trường tuyệt hảo nhất cho việc phát triển trên con đường giác ngộ. Chúng ta trải nghiệm trái đất và thế giới của chúng ta như là rất thật, và Cực Lạc hay Dewachen có thể như thật đối với chúng ta như trái đất và thế giới con người đối với chúng ta hiện nay. Chúng là thật trong một ý nghĩa tương đối: chúng rõ ràng thực tiển, là điều thật sự không thể tách rời với những gì chúng ta gọi là tánh không.

Trong kinh Đại Bổn Di Đà (Vô Lượng Thọ kinh) Đức Phật Thích Ca diễn tả trong chi tiết tỉ mỉ hơn những gì ở Cực Lạc ra sao. Nó giống như một nơi huy hoàng rực rở, nơi những con chim hát lời diễn giảng giáo Pháp, những ao hồ tuyệt đẹp tự động thay đổi nhiệt độ và chiều sâu của chúng, tất cả cây cối có hoa trái chín muồi thật ngon lành, giáo huấn Pháp bảo tự vang âm đồng thời, và nhiều nhiều chi tiết sáng chói khác nữa. Tất cả những điều này, được hoàn thành để tạo nên một môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏithực tập giáo Pháp mà không có những xao lãng như chúng ta trải nghiệm ở đây trong thế giới tham dục. Như những pháp đồ chuyên dụng, những người học hỏi một cách cần mẫn và phát triển những phẩm chất sùng tín, phước đức, trí tuệ, tất cả chúng ta đều được hoan nghênhCực Lạc. Nguyện cho tất cả chúng ta sẽ lại gặp nhauCực Lạc và khao khát như Khenpo Tsultrim chỉ dạy trong bài ca của ngài: "Và một khi sinh ra ở đấy, chúng ta hoàn tất các địa (thập địa Bồ Tát[7]) và những con đường (năm con đường: tích tập, chuẩn bị, thấy đạo, thiền định, và hoàn thành[8].)"

larry_cappelLarry Cappel là một nhà tâm lý trị liệu ở Denver và Louisville Colorada và cũng là thủ lĩnh của Community Dharma được ủy quyền bởi Tổ Chức Sukhasiddhi, một trung tâm Phật Giáo Tây Tạng. Có thể tìm hiểu thêm và liên lạc với ông theo địa chỉ sau: www.downtowndenvertherapy.com hay www.therapylouisvilleco.com

Nguyên tác: "May You Be Born in the West in Sukhavati"

Ẩn Tâm Lộ ngày 08-04-2012

Các bài liên hệ:

CUỘC ĐỜI CỦA TỔ SƯ LONG THỌ

LONG THỌ VỚI PHẬT DI ĐÀCÕI TỊNH ĐỘ

BÀI PHÁT NGUYỆN VÃNG SINH CỰC LẠC

THIÊN THÂN TỊNH ĐỘ LUẬN

THIỀN TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG

CỰC LẠCLUÂN HỒI: BẤT NHỊ TRONG TỊNH ĐỘ TÔNG

TỊNH ĐỘ CHÂN TÔNG THỰC HÀNH

VỌNG TƯỞNG LUÂN HỒI

HOÀN TƯỚNG HỒI HƯỚNG

THIỀN QUÁN VỀ ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG



[1] LONG THỌ VỚI PHẬT DI ĐÀCÕI TỊNH ĐỘ

[2]Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ

Mỗi cái nhìn thấy được pháp thân

Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần

Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ - Nhất Hạnh

[3] Trung ương: Phật Tỳ Lô Giá Na, Đông phương: Phật A Súc Bệ, Nam phương: Phật Bảo sinh, Tây phương: Phật A Di Đà, và Bắc phương: Phật Bất Không Thành Tựu.

[4] THIỀN QUÁN VỀ ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG

[5] Tam giới duy tâm

[6] Tịnh độ duy tâm

[7] (1-Hoan hỉ địa, 2-Ly cấu địa, 3- Phát quang địa, 4- Diệm huệ địa, 5- Nan thắng địa, 6- Hiện tiền địa, 7- Viễn hành địa, 8- Bất động địa, 9- Thiện tuệ địa,10- Pháp vân địa).

[8] Tương đương với: Tư lương đạo, Gia hạnh đạo, Kiến đạo, Tu tập đạo, và Cứu kính đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21762)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23323)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21947)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38125)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19955)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19655)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16417)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26062)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26262)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19848)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28959)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20688)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19423)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30487)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36422)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33225)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35559)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20969)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21914)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25259)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25794)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31256)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant