Tất cả người xuất gia cũng như người tại gia, một khi phát tâmtu hành đều mong muốn bớt khổ được vui, đạt đếncon đườngvô ngã, thể nhậpchân tâmPhật tánh. Nói xa chút nữa, sau khi từ bỏ cõi đời này, nếu chưa được giải thoát sẽ sanh về cõi lành, trở về cõi đời này, được làm người tốt đẹp hơn, gặp được minh sư, gặp được chánh pháp. Nhưng tại sao có những lúc trong tâm ta nhiều khi không được an ổn, hạnh phúc? Là bởi vì chúng ta còn những kiết sử nên chưa thể nhập được chân tâmPhật tánh của chính mình.
“Kiết” là trói buộc, “sử” là sai khiến. Nếu chúng ta không chánh niệm, tỉnh giác trong giờ phút thực tại này thì những kiết sửsai khiến, trói buộc mình ý nghĩ bậy, thân làm bậy và lời nói không được chánh niệm.
Nếu những hạt giống còn tiềm ẩn trong tâm chúng ta như tật đố, ích kỷ, san tham, nếu chúng ta không khéo chuyển hóa thì sau khi từ giã cõi đời này sẽ đưa mình đến những cảnh giới xấu. Muốn chuyển hóa những hạt giống này phải dùng phương thuốc tùy hỷ.
II. NĂNG LỰC CỦA SỰ TÙY HỶ
Năng lực là một sức mạnh, là chất liệu mà nếu chúng ta không có thì tu mãi cũng vô ích. Tùy là theo, hỷ là vui. Tùy hỷ là vui theo.
Trong Kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ lúc còn là cư sĩ ở chỗ Ngũ Tổ, khi được Ngũ Tổ bảo xuống nhà trù liền thưa: “Bạch Hòa thượng, tự tánh con thường sanh trí tuệ, tức là phước điền”.
Không phải quý Phật tử đến chùa bố thí, cúng dường, cất chùa, độ tăng là phước điền. Thấy tất cả mọi sự, mọi việc, chúng tatùy hỷ, vui theo, cái gì thấy được chỗ đó. Như quý vị làm việc thiện nhưng trong tâm còn tật đố, ích kỷ, san tham thì cái phước đó là phước tạo tác. Còn một người ngộ nhậptri kiếnBát Nhã rồi, từ tự tánh khởi dụng ra thì cái đó là chân thật.
Trong Kinh TứThập Nhị Chương, Phật dạy rất rõ: “ Một người bố thí và một người không bố thí nhưng tùy hỷ thì phước bằng nhau”. Tại sao? Tại vì người bố thí xả bỏ tâm tham, còn người tùy hỷxả tâm tật đố nên phước bằng nhau.
Đức Phật cũng khẳng định rằng muốn tìm được hạnh phúc, muốn tìm được sự an lạc là ngay trong cuộc sống giữa đời thường này thì phải cần đến năng lực của sự tùy hỷ..
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, có một vị Tỳ kheo đến hỏi Phật: “Bạch Đức Thế tôn, làm thế nào một người tín thí trong cuộc đời này tu tập được an ổn, được hạnh phúc?”
Đức Phậttrả lời: “Này các Thầy Tỳ kheo, có một người buổi sáng ýnghĩ thanh tịnh, lời nóithanh tịnh, thân hành động thanh tịnh. Người đó được một buổi sáng an ổn và hạnh phúc. Này các Thầy Tỳ kheo, buổi trưa có một người ý nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân hành động lành. Người đó được một buổi trưa an ổn và hạnh phúc. Này các Thầy Tỳ kheo, có một người buổi chiều ý nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm điều lành. Người đó được một buổi chiều an ổn và hạnh phúc”.
Như vậy, đạo là ở chính mình, nhưng nếu chúng ta không khéo gạn lọc, không khéo chuyển hóa thì thân chúng ta làm điều ác, miệng chúng ta nói lời ác và ý nghĩ về điều ác.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Phật dạy: “Người thù địch có bảy điều kiện mong muốn cho kẻ thù mình.
1. Mong cho kẻ thù mình nhan sắc xấu. (Mình tu học rồi, niệm dấy lên phải chuyển hóa, không sẽ tạo thành hạt giống xấu, đủ nhân, đủ duyên sẽ phát tác. Tu thiền là phải luôn luôn theo dõi từng tâm niệm của mình). 2. Mong cho kẻ thù với mình ngủ không được. 3. Mong cho kẻ thù với mình không được lợi ích, thường tổn giảm. 4. Mong cho kẻ thù với mình bị phá sản. 5. Mong cho kẻ thù với mình không được danh vọng. 6. Mong cho kẻ thù với mình không được bạn bè. 7. Mong cho kẻ thù với mình chết đọa đường dữ.
Phật thấy được vọng tưởngđiên đảo của chúng sanh nên nói ra để chỉ cho mình. Sau khi biết được rồi, lỡ tâm niệm có dấy lên thì tức khắc phải chuyển hóa. Mà muốn chuyển hoá được phải gia côngtu tập chứ không chỉ có lý thuyết suông.
III.CON ĐƯỜNGCHUYỂN HÓA NỘI TÂM
Con đườngchuyển hóa nội tâm này là con đường của GIỚI, ĐỊNH, TUỆ. Trong Kinh Pháp cú, Phật nói rõ: “Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo Nếu với ý ô nhiễm Nói lên hay hành động Khổ não bước theo sau Như xe chân vật kéo". Mình phải tùy hỷ, coi tất cả với mình là một.
Thiền sưThiên Cơ dạy: “Hạ thủ công phutu thiềnhoàn toàn ở chỗ giác ngộ, cần biết phàm phu một niệm giác tức một niệm là Phật. Phật một niệm chẳng giác tức một niệm là phàm phu”.
Tu là phải trên từng niệm. Mình phải tùy hỷ, coi tất cả mọi người và mình là một. “Bởi vì giác tức là Phật, Phật tức là giác. Phật với phàm phu chỉ tại giác cùng chẳng giác mà thôi. Tâm người có giác tức là có Phật. Giác hay mở cửa lục độ, hay vượt quakiếp hải ba a tăng kỳ, khắp làm lợi ích như cát bụi, khuếch trương phước huệ, được sáu thứ thần thông tròn đầy quả Phật trong một đời. Cảnh khổ trong địa ngục, nào vạc dầu sôi, sông băng nghe đến giác liền biến thànhhương lâm (rừng hương), uống nước đồng sôi, nuốt hòn sắt nóng nghe đến giác thảy đều sanh Tịnh độ.
Trong giờ phút thực tại này, nếu chúng ta mê mờ, tật đố, ích kỷ, nhưng sau khi nghe lời dạy của Hòa thượng, lại hạ thủcông phu nữa thì giác được phần nào, giải thoát được phần ấy. Đấy gọi là giác ngộ trong từng niệm. Có một vị Thiền sưNhật Bản nói: “Muốn biết người đó mai kia ra đi được tự tại, an ổn, hạnh phúc hay không thì trong cuộc sống giữa đời thường này nhìn vào hành động của người đó”.
Thấy người khác được hạnh phúc, được an ổn, được tài giỏi hơn mình, nếu chúng ta còn tâm cù cặn, tật đố, chắc chắn tu không có kết quả. Ngồi thiền mà chưa quét sạch được những tật đố, san tham thì đó là tướng ngồi thiền chứ không phải tâm ngồi thiền.
Học thiền phải kiểm nghiệm chỗ đó thì tu ít mà có kết quả nhiều. Còn gia côngtu hành, làm như khổ hạnh lắm mà không bỏ được tâm tật đố, san tham, ích kỷ thì thậm chí không bằng những người tu có vẻ như chơi, luôn tùy hỷ, tha thứ, có lòng thương, bao dung.
Trong Kinh A Hàm, có một hôm, Ngài A Nan cùng đi khất thực với Đức Phật, đi ngang qua một khu rừng, thấy một thầy Tỳ kheo đang ngủ, Phật mỉm cười. Đi một lúc xuống thành thị thì thấy một thầy Tỳ kheo đang ngồi thiền rất trang nghiêm, Phật nhíu mày. Ngài A Nan rất ngạc nhiên, bèn thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, tại sao một thầy Tỳ kheonằm ngủ trong rừng mà Thế Tôn lại mỉm cười, còn thầy Tỳ kheo ngồi rất tinh tấn, trang nghiêm ở trong thành thị thì Thế Tôn lại nhíu mày?” Phật đáp: “Thầy Tỳ kheo ở trong rừng, tuy ngủ nhưng dậy là ngồi thiền. Còn Tỳ kheo ở thành thị sau khi xả thiền lại buông lung”.
Do đó, quý vị thấy Phật dạy ở đây là dạy về chuyển hóa nội tâm. Trong Chuyển nghiệp lục, có một người hỏi một thiền sư: “Tại sao Đề Bà Đạt Đa ở dưới địa ngục lại vui như cõi trời tam thiên?” Thiền sưtrả lời: “Nghiệp tại kỳ trung". Sống trong cõi dục mà tâm hằng giác tức cõi này là cõi Tịnh độ.
IV.CHUYỂN HÓATÂM THỨC VÀO CUỘC SỐNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Thấy người khác được an ổn, hạnh phúc thì mình phải tùy hỷ, còn nếu sinh tâm tật đố, ích kỷ thì đó là bệnh, sẽ phải chịu quả báo xấu.
Một hôm Mạt Lợi phu nhân đến hỏi Đức Phật:
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, ảnh hưởnguy tín ít?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, ảnh hưởnguy tín ít là hay phẫn nộ, san tham, tật đố, ích kỷ.
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt nhưng giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn, ảnh hưởnguy tín lớn?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc xấu, hình dánghạ liệt là hay phẫn nộ nhưng biết bố thí, biết cúng dường, biết tùy hỷ những sở hữu của người khác.
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc đẹp, ưa nhìn nhưng nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởnguy tín ít?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc đẹp, được ưa nhìn nhưng nghèo khổ, tài sản ít, ảnh hưởnguy tín ít là do ít phẫn nộ nhưng không tùy hỷ, bố thí cúng dường”.
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, ở đây một số nữ nhân dung sắc đẹp, ưa nhìn, tịnh tín, giàu sang, tài sản lớn, ảnh hưởnguy tín ít?” Phật nói: “Một số nữ nhân dung sắc đẹp, được ưa nhìn, tịnh tín, giàu sang, tài sản lớn, ảnh hưởnguy tín lớn”.
Trong Kinh Bảo Tích, phẩm Văn Thù Sư Lợithọ ký, Phật dạy: “Này Xá Lợi Phất, Bồ Tát thấy người được lợi ích sanh lòng tùy hỷ có 4 điều lợi ích: 1. Thường sanh tâm này, tôi nhiếp chúng sanh phải cho họ được lợi lạc. 2. Nay họ được lợi lạc nên tôi sanh lòng vui mừng. (Tu tập là phải luôn luôn kiểm soát được niệm để chuyển hóa từng tâm niệm của mình). 3. Chỗ ở có tài vật, vua quan, giặc cướp, nước, lửa đều chẳng xâm đoạt được. 4. Tùy sanh xứ nào, của báu và các con thảy đều đầy đủ, vua còn chẳng đố kỵ huống là người khác.
V. KẾT LUẬN
Vậy sau khi nghe bài này xong, chúng ta phải tu học như thế nào, ứng dụng thế nào trong cuộc sống giữa đời thường này?
Trong Kinh tiểu nghiệp phân biệt, Phật dạy:
“Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông thấy người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, sanh tâm tật đố, ôm tâm tật đố. Do nghiệp như vậy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nó sanh vào ác thú, nếu được sanh ở loài người thì nó chỉ được quyền thế nhỏ, con đường đưa đến quyền thế nhỏ. Này thanh niên, tức là tật đố, ôm tâm tật đố”.
“Ở đây, này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông không có tâm tật đố, đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tâm tật đố. Do nghiệp như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nó sanh vào thiện thú, nếu được sanh ở loài người thì nó được quyền thế lớn, con đường đưa đến quyền thế lớn. Này thanh niên, tức là không tật đố, không ôm tâm tật đố”.
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lựctùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
Qua bài pháp này, chúng ta phải tu học để phát triển lòng từ, phát triển tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người. chính những nhân tố đó sau này giúp chúng tatu họcthành Phật, tác Tổ.
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúc và cảm giác. Chỉ quan sát những hoạt độngtinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
Đức Quan Thế ÂmBồ Tátvô cùnghoan hỷ về sự tu tập và tâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốtđi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
Kinh Pháp Hoatuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đườngtu họcduy nhất là Phật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví nhưhoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏgiáo nghĩathâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lýtánh Không...
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tátthực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Táthiếu thảo với cha mẹ nhất.
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượng là vô lậu, dứt hết các phiền não.
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương phápquán niệm và giải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựuNiết Bàn.
Đức PhậtThích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
Đạo là con đường mà đạo Phật là con đường đi đến giác ngộ. Có vô sốcách đi trên con đường ấy – vô lượngpháp môn tu – tùy theocăn cơ, tính giác của từng cá thể...
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượnggiảng KinhNguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa và Thiền Tông.
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
Để có một đời sống hạnh phúcan lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trịcăn bản của nhân loại.
Thiền SưPhổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từbi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
Thiền Tôngnhấn mạnh vào mặt kinh nghiệmcá nhân, nhắm đưa từng con ngườichúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnhhiện tiền của chúng ta.
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật PhápTương TụcDu GiàTối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trìđúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tậpchánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như nhưbình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con người vì chấp trướcmê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thànhPhật đạo.
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sưTinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng KinhBát Đại Nhân Giác.
Giáo lýkinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môngiải thoátbất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minh và phiền não thì sẽ thành Phật.
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãibao la, Kinh TứThập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếunghĩa lýcăn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu NiThế Tôn vì thương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng tháibất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đích là giáo hóachúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giớiphiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thànhvăn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
Đạo Phật là đạo của chân lýcần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
Đức Phậtgiáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
Ðạo Phật là lẽ sốnggiác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương phápgiác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uếphiền não tiêu sạch.
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức PhậtThích Canhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thànhtôn giáo mang tính thế giới...
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõtoàn bộPhật giáo.
Quyển sách này là một luận thư có quyền uytối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng ToạHữu bộ.
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràng và minh bạch.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.