Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12 Phẩm Như Lai Thọ Lượng

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6779)
12 Phẩm Như Lai Thọ Lượng

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Như Lai Thọ Lượng

CHÁNH VĂN

Phẩm Thọ Lượngtiêu biểu cho pháp thân chân thể, xưa nay trong sạch, chẳng sanh chẳng diệt, sống lâu chẳng thể nghĩ bàn. Người tu hành, nên thích thú tinh thần này, đồng thời phát tâm Bồ-đề, mong cầu được chứng. Nếu người chỉ được nghe Phật sống lâu chẳng thể nghĩ bàn, một lòng tin nhận, thì người ấy được trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, đời tương lai ắt chứng được “sống lâu chẳng thể nghĩ bàn” như thế. Bởi hiển bày thức tâm sanh diệt đã diệt, thì chân tâm tịch diệt chẳng sanh chẳng diệt hiện tiền. Kinh nói: “Này thiện nam tử, các ông nên tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai”. Phật bảo ba lần như thế.

Khi đó, trong chúng đại Bồ-tát, ngài Di Lặc làm thượng thủ, đồng chấp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, cúi xin ngài nói, bọn chúng con sẽ tin lời của ngài”. Bạch rõ ba lần như vậy.

Nay kẻ tối hạ bần tiện Giác Đạo Tuân này, xin cuối đầu qui mạng lễ. 

GIẢNG

Phẩm Thọ Lượng là nói về tuổi thọ của Pháp thân Phật. Phẩm Thọ Lượng tiêu biểu cho pháp thân chân thể, xưa nay trong sạch, chẳng sanh chẳng diệt sống lâu chẳng thể nghĩ bàn. Thể tánh trùm khắp, tuổi thọ vô cùng. Chúng ta không thể dùng con số hay ví dụ để tính tuổi thọ của pháp thân. Vì nó vượt ngoài không gian, thời gian, vượt ngoài mọi hạn lượng.

Người tu hành, nên thích thú tinh thần này, đồng thời phát tâm Bồ-đề, mong cầu được chứng. Người tu hành nếu chỉ sống trên hiện tượng giới hạn thì sẽ không phát huy được chỗ chân thật không hình tướng, không sanh diệt. Tâm thể vô hạn, các hiện tướng hiện cảnh hữu hạn. Vì vô hạn nên không có gì trói buộc, còn cái hữu hạn dễ vướng mắc, ràng buộc, nhưng lại luôn biến đổi, có đó rồi không đó. Tạo ra khó khổ mà cũng không bảo quản được mãi mãi. Ví dụ như thân chúng ta, từ ngày sinh ra cho tới già chết, muốn bảo trì viên mãn trọn vẹn, không phải là điều dễ dàng.

Cho nên nhìn vào cuộc đời, không có gì bền vững. Kẻ giàu, người nghèo, tất cả đều vô thường. Mạng căn và phước duyên mỗi người khác nhau, song tất cả đều nằm trong điều kiện giới hạn, rất khó gìn giữ. Vậy nên cần cầu thoát ly, bỏ thân huyễn giả để trở về sống với thân chân thật. Điều này đòi hỏi chúng ta phải dứt khoát, mới có thể khắc phục được tập nghiệp của mình, dần dần ra khỏi trần lao sanh tử. Ví dụ khuya hôm nay, đại chúng đều tinh tấn lên Thiền đường ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh tọa thiền. Riêng mình lại gật gù rồi bỏ cuộc, đi làm việc khác. Đây chính là hiện tượng không cố gắng, không làm chủ được, để nghiệp lực đẩy mình đi xa. Ở trong tập thể mà không dính dáng gì với tập thể. Từ một giờ một ngày, rồi nhiều giờ nhiều ngày như thế, thân xác mình sống ở đây nhưng tinh thần ở chỗ khác. Đó là hiện tượng của sự thoái hóa, cần phải chỉnh đốn ngay lập tức. Nếu không chúng ta sẽ khó giữ được tâm Bồ-đề.

Thân chúng ta trải qua từng chặng. Hai mươi đến ba mươi tuổi, ba mươi đến bốn mươi tuổi, bốn mươi đến năm mươi tuổi, năm mươi đến sáu mươi tuổi. Nếu ở thập kỷ hai mươi ba mươi tuổi, mình không tập làm chủ thì đừng nói tới thập kỷ năm mươi sáu mươi. Vì đến thập kỷ sáu mươi, chúng ta chỉ tạm dùng thân này với hình thức bên ngoài, chớ tinh thần đã suy yếu, không còn mẫn tiệp hay mạnh mẽ như lúc trẻ nữa. Đến giai đoạn này muốn hạ thủ công phu cũng không hạ thủ nổi. Do đó làm sao anh em phải vào nề nếp, nhất là hoàn chỉnh công phu trước thập kỷ ba mươi bốn mươi. Tiền nợ cơm áo không phải là chuyện đơn giản. Cho nên chúng ta phải cố gắng tỉnh sáng trước khi đối đầu với Diêm vương

Chúng ta phải biết thương mình. Biết thương mình thì đừng để nợ nần vây bủa. Cho nên ngay bây giờ phải thực tâm nghĩ đến việc chính của mình. Nói đến tuổi thọ của Phật là nói đến tâm thể của chúng ta. Việc tu tập hay làm các thiện sự chỉ là phát huy hình thức bên ngoài, đó chỉ là những phúc vụn, những cái tầm thường thôi. So với công phu của đức Phật trong khoảng chưa thành chánh giác, chúng ta không được tí xíu nào cả. Từ khi ngài đổi chiếc y với người thợ săn, lang thang trong rừng khổ hạnh, học pháp và chứng các tầng thiền định. Thân thể suy cùng đến tột độ… Chúng ta chưa có gì để bì được, sáng tới bữa ăn, trưa lại một bữa ăn nữa, ăn trưa chưa vơi thì lại tới bữa ăn chiều. Tối đến ngủ gà ngủ gật, sáng ra lại dể duôi, chưa dứt khoát việc tu hành. Thử hỏi bao giờ thành Phật đây?

Học thì chúng ta cũng học, hiểu cũng có hiểu, nhưng phần áp dụng còn lơi lỏng. Bởi lơi lỏng nên cuộc sống hằng ngày bị bức xúc, tinh thần không an ổn, việc tu không tiến. Người xưa khi xét thấy công phu chưa tiến là trầm thống vô cùng. Còn chúng ta bây giờ thấy bình thường thôi, không cảm nhận đau xót trong lòng chút nào cả. Do đó mình tu không tới đâu hết. Các vị ngày xưa nói do công phu không miên mật nên mới ngủ gục. Nếu chúng ta có bệnh này phải khắc trị ngay, không để như vậy đến hết cuộc đời mình. Đừng bao giờ mê muội như thế. Thời gian thuận lợi chỉ đến với chúng ta trong một giai đoạn nào thôi, rất giới hạn. Vì vậy chúng ta tranh thủ giải quyết cho xong việc của mình, không thể xem thường.

Ngài Từ Minh ở chỗ thiền sư Thiện Chiêu, những phút giây tâm miên mật không liên tục, ngài dùng dùi nhọn để trong lửa đỏ và đâm vào bắp đùi mình. Người xưa tự kỷ luật nghiêm khắc như vậy. Những tấm gương này nếu chúng ta không được học, không noi theo thì không thể tu tiến. Cho nên các huynh đệ ý thức đến yếu tố miên mật trong công phu. Miên mật có nghĩa là liên tục. Tổ sư đã từng nói, nếu tâm ban đầu giữ được liên tục lâu dài thì việc tu thành Phậtchắc chắn thôi. Mỗi huynh đệ phải tự kiện toàn lấy mình. Kiện toàn giới đức, kiện toàn định lực, kiện toàn trí tuệ. Chúng ta phải tự ý thức mình là người tu, không thể chứa chất ma mị trong tâm. Khi bản thân mỗi cá nhân tốt thì tập thể cũng sẽ tốt, toàn đạo tràng tốt theo.

Tuổi thọ của Như Laivô lượng vô biên, không gì có thể tính kể. Cho nên tất cả thế gian này tập trung trí lực như ngài Xá Lợi Phất lại cũng không thể nghĩ bàn chỗ đó. Đó cũng chính là tâm thể của chúng ta, tuổi thọ của chúng ta. Còn tuổi thọ vài ba chục năm của thân cha mẹ sanh đây không có gì đáng nói cả. Vì vậy cho nên các Thiền sư nói khi bỏ thân này như cởi được chiếc áo mùa hạ, như đắp chiếc chăn mùa đông, rất là nhẹ nhàng, không có gì đáng sợ hãi cả.

Khi đó, trong chúng đại Bồ-tát, ngài Di Lặc làm thượng thủ, đồng chấp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, cúi xin ngài nói, bọn chúng con sẽ tin lời của ngài”. Bạch rõ ba lần như vậy. Các vị Bồ-tát vô lượng vô biên từ dưới đất vọt lên mà Phật nói là con của Phật. Các vị này đã tu vô lượng vô biên kiếp. Chuyện này các đại Bồ-tát thượng thủ không hiểu nổi. Do đó Phật liền nói tuổi thọ của ta vô lượng vô biên, nên mới độ vô lượng vô biên các vị Bồ-tát. Phẩm này nói đến pháp thể và lực dụng của Như Lai. Công đức của pháp thể là như thế. Vinh dự lớn lao nhất là tất cả chúng ta đều đầy đủ pháp thể. Bây giờ muốn nó hiện tiền thì đừng để vọng tưởng kéo lôi.

Nói trở lại pháp tu của chúng ta, với các dấy niệm mình không dể duôi, không bị dẫn bởi cảnh, bởi tâm vọng tưởng. Sống tỉnh sáng, làm chủ được tất cả cảnh duyên, dần dần pháp thể sẽ hiện tiền.

CHÁNH VĂN

Kệ rằng:

Nghe rồi xoay thấy chủ nhân ông,
Mới rõ tu chân chẳng dụng công,
Hay chuyển pháp luân, trần số chúng,
Quay về giác đạo, tịnh tâm đồng,
Được nghe Phật thọ lâu xa tít,
Phước lớn nhân duyên bằng thái không,
Tạo tác cúng dường, công hữu lậu,
Suy lường thọ mạng, đức vô song.

GIẢNG

Bài kệ này diễn tả pháp thân vô cùng vô tận. Chúng ta nhận được chủ nhân ông là do chỗ chân dụng công. Phần tự lợi lợi tha đầy đủ, độ tận chúng sanh, công đức không thể nghĩ lường. Đem hư không thênh thang rộng lớn không bờ mé ví với cái đó cũng không bì được. Cho nên lấy công đức hữu lậu suy lường với thọ mạng vô lượng của Như Lai, trọn không chút dính dáng. Hữu lậu thì hữu cùng, hữu sinh thì hữu diệt. Chân tánh pháp thân vô cùng vô tận, không sanh không diệt. Tánh giác là gì và làm sao sống được với tánh giác là phần của mỗi chúng ta

Con đường thẳng tắt đến với tánh giác vẫn là không theo dấy niệm vọng tưởng. Ngay đây đã có định tuệ. Pháp tu như vậy, chúng ta phải nắm vững và thực hành cho đến nơi đến chốn. Khi mình đã tin nhận, đã có công phu thì dù vật đổi sao dời mình cũng bình an, hằng sống như thế. Thế nên tôi mong mỏi chư huynh đệ kịp nhận ra việc chính của mình, tha thiết thương mình. Nên nhớ chỉ có mình giải quyết cho mình, không ai thay thế được. Mỗi chúng ta tự vươn lên, tự gầy dựng cho mình sự nghiệp giác ngộ giải thoát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31270)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25146)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23777)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28946)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20873)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31446)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23289)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25754)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23728)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23356)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22454)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22103)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41112)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18999)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20494)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27731)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38130)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24504)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22720)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26551)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53588)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30848)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21067)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38794)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20550)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20603)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27063)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28088)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37163)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55174)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37982)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14565)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10649)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant