Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17 Phẩm Diệu Âm Bồ-tát

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6947)
17 Phẩm Diệu Âm Bồ-tát

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Diệu Âm Bồ-Tát

CHÁNH VĂN

Phẩm Diệu Âm là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng, căn này từ lúc mới vào, vẫn cần nhờ các âm thinh, để bày tỏ tánh nghe, tiêu mòn vọng niệm, vào Xa-ma-tha. Dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh. Cho đến cả động tịnh đều quên. Phải ngay nơi đây mà vào Tam-ma-địa. Khi đó chẳng cần thinh trần hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu. Thiền sư Cổ Linh Thần Tán(1) nhắc lại:

Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày thể thường chân,
Chẳng kẹt văn tự.
Đấy là lúc rõ được pháp không vậy.

Tiết này lấy Bồ-tát Hoa Đức làm hợp cơ, mà được Pháp Hoa Tam-muội. Nói Hoa, đó là tri kiến. Còn Đức là diệu thể của các đức đầy đủ trong bản tánh. Tóm lại, nói hoa đức là nhằm tiêu biểu cho tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm, cũng chính là nghĩa minh tâm kiến tánh vậy.

Nói Pháp Hoa Tam-muội. Pháp tức là Diệu tánh chân như sẵn có. Hoa tức tánh ấy đủ Diệu năng Tri kiến thanh tịnh. Tam-muội hoặc bảo là Tam-ma-đề, đây nói rằng chánh thọ, cũng gọi rằng chánh định. Lại gọi là định tuệ đẳng trì, tứ là nghĩa chánh quán vậy. Đây nói rõ, chính được đại định sẵn có tri kiến chân như, cũng là phá lớp vọng tưởng hư minh của thọ ấm thứ hai.

Kệ rằng:

Đảnh Phật thần quang tịch chiếu thông,
Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,
Rộng phô Tam-muội nêu tri kiến,
Bày hiện Nhất thừa, rõ đạo tông,
Thể dụng về như, nghe tức tiếng,
Căn trần rốt ráo, sắc mà không,
Chương này mượn huyễn bày chân tế,
Giáo thể từ nghe vào thật dòng.

GIẢNG: 

Phẩm Diệu Âm, là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng, căn này từ lúc mới vào, vẫn cần nhờ các âm thinh, để bày tỏ tánh nghe, tiêu mòn vọng niệm, vào Xa-ma-tha. Dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh. Cho đến cả động tịnh đều quên. Phải ngay nơi đây mà vào Tam-ma-địa. Khi đó chẳng cần thinh trần hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu. 

Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự ở trước nói lên công tu hành đến giai đoạn phá sắc ấm. Tới phẩm Bồ-tát Diệu Âm là phá thọ ấm

Mỗi chúng ta đều có tánh nghe được biểu trưng ra ngoài qua lỗ tai tức nhĩ căn. Do đó ai cũng nghe. Những vị có bệnh về căn tai hoặc người lớn tuổi cũng nghe, nhưng âm thanh không rõ ràng. Đó là âm thanh không rõ chớ không phải tánh nghe không rõ. Tánh nghe vẫn thế. Nghe có tiếng hoặc nghe không có tiếng. Chúng ta nắm vững chỗ này để ứng dụng công phu tu. 

Hòa thượng Tôn sư thường dạy “nghe như không nghe” hoặc “nghe mà như điếc”. Tại sao? Vì nếu ta chạy theo âm thanh là bị trói buộc, bị thinh trần dẫn. Nó dẫn thì đi vào con đường tạo những nghiệp nhân không tốt. Đã tạo nghiệp nhân không tốt, dù có chạy trốn đường trời cũng bị nghiệp quả thôi, chắc chắn như vậy. Phật dạy mình tu từ nhân. Đối với căn tai, ta vẫn nghe bình thường, như nghe tiếng chim kêu, tiếng gió thổi động bên ngoài, nghe tiếng huynh đệ nói nho nhỏ với nhau, nhưng không chạy theo những âm thanh ấy, không thắc mắc, không yêu thích, không ghét bỏ. Như vậy là nghe như không nghe.

Ví dụ nghe huynh đệ nói cái gì đó không được hài lòng, gương mặt không vui, chứng tỏ bên trong bất ổn. Người biết tu ngang đó tỉnh táo sáng suốt, không lầm chạy theo. Đó là một trường hợp. Kế đến, đối với những âm thanh thuận lòng, thích thú cũng không lầm, không chạy theo. Người không nắm bắt bất cứ loại âm thanh nào, luôn bình thường an nhiên, như vậy là nhĩ căn viên thông

Trong quá trình tu tập căn bản, huynh đệ nhẹ nhẹ từ từ, bước từng bước thật vững. Thứ nhất chúng ta nghe rõ ràng, thứ hai nghe mà không chấp, không dính thì được bình yên chút chút. Vì sao bình yên? Vì không bỏ cái thật chạy theo cái giả, không bỏ chủ thể chạy theo bóng dáng bên ngoài. Thường chúng ta khổ vì chạy theo bóng dáng bên ngoài quá nhiều. Mỗi khi ngoại trần khơi động, ta chạy theo và nắm bắt. Chạy theo nó rồi giống như người cùng tử tha phương cầu thực, xa nhà nhớ quê, không biết đường về. 

Người tu không có chủ lực, không có nội tại, nhất là tu thiền mà không có định tỉnh sẽ bị trần cảnh kéo lôi, rồi cột trói mình luôn. Xiềng bên ngoài dễ gỡ dễ tháo, chớ những loại trói buộc vô hình này khó gỡ lắm, ta cũng không biết manh mối nó ở đâu để mà gỡ. Có nhiều huynh đệ, cuộc đời chồng chất năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, cho tới tám mươi năm, gần chết cũng chưa biết manh mối chỗ nào để gỡ. Thì sao? Thì mang luôn cái còng ấy đi theo, đời sau tiếp tục trói nữa. Chúng sanh theo nghiệp đã gây tạo, từ đời này sang đời khác chồng chất, hết lớp còng trói này tới lớp còng trói khác. Cho nên Phật nói rất đáng thương vậy!

Chúng tanhân duyên đặc biệt, ngang đây gặp Phật pháp, biết rõ những còng trói đó cần phải tháo gỡ. Phương tiện để tháo gỡtrí dụng. Mỗi người phát huy trí dụng của mình thật tỉnh sáng. Vừa có một niệm dấy khởi, chúng ta biết nó không thật nên không chạy theo, không chấp nhận, không để nó kéo lôi mình, đó là định. Người có định, không bị pháp trần kéo lôi ngược xuôi là có tuệ, gọi là định tuệ đồng thời hay định tuệ đẳng trì

Phật nói thân này không thật, danh vọng không thật, tiền tài không thật, sắc đẹp không thật v.v… tất cả đều hư ảo. Chúng ta nhớ như vậy để trị bệnh tham sân si. Nếu không quyết tâm buông bỏ những thứ hư ảo ấy, cả đời chúng ta không tu tiến nổi đâu. Vì chúng sẽ theo quấy nhiễu và lôi mình đi vào những con đường tăm tối, khổ đau. Người bình yên và người không bình yên khác nhau xa lắm. Người bình yên luôn tự tại, tỉnh táo, sáng suốt trước mọi cảnh duyên và không bị vọng động bên trong sai khiến. Người không bình yên luôn ngược xuôi, mắc mứu, bị trần cảnh bên ngoài và vọng tưởng bên trong sai sử làm những việc mê muội dẫn đến kết quả khổ đau. 

Sở dĩ nói đạo Phật là đạo của trí tuệ, của từ bi hỷ xả, đạo giác ngộ giải thoát là vì giáo lý Phật dạy chúng ta vượt qua những tăm tối, không bị nghiệp lực sai sử khiến chúng sanh trôi giạt vào trầm luân sanh tử. Người học Phật, tu Phật không thực tập được như vậy thì đâu thể gọi là đệ tử Như Lai. Cho nên chúng ta phải áp dụng pháp học vào đời sống để chuyển hóatháo gỡ hết mọi sự trói buộc. Như thế mới có lợi ích và an vui.

Chúng ta còn vui buồn, phiền não là vì mình chưa làm chủ được nên cứ mắc mứu việc này việc kia. Nếu không tu không sửa đổi, mình sẽ bất ổn khổ đau hoài. Như vậy thì vô lý quá! Chúng ta đã chọn đạo pháp làm lẽ sống, làm mục đích duy nhất đời mình. Vậy mà không hành đạo, không tu đạo, nghĩa là sao? Cho nên chỗ này chư huynh đệ cần phải xác định thật rõ ràng để chúng taphương hướng hành động đúng đắn. Nếu không như thế, đêm ba mươi sau cùng, chúng ta sẽ không có đường đi, đừng nói chuyện tự tại

Người được tự tại là người không sợ chết. Bởi người này thấy rõ thân không thật, địa vị không thật, tiền tài không thật, không có gì thật hết, nên lúc bỏ thân họ cười. Thật ra chết là thay đổi một món đồ cũ xấu, rách nát để có món đồ tốt. Muốn đổi món đồ tốt không thể nào thiếu vốn. Cũng vậy, muốn đi con đường tốt, không thể thiếu sự chuẩn bị. Người muốn tự tại lúc lâm chung, bình nhật phải có định tuệ. Bây giờ đối với ngũ dục không sợ mất, đối với thân tứ đại không ngán chết, thì lúc ra đi mới bình thản an nhiên, không bị ngưu đầu ngục tốt lôi xuống điện Diêm vương đối chất. Anh em học đạo không khai thông chỗ này, chỉ nói trên mây xanh mà không làm được việc gì thì đừng than trách lúc về sau.

Thiền sư Văn Hỷ đi hành khước học đạo, đến Ngũ Đài Sơn mong được yết kiến Bồ-tát Văn Thù. Lên tới Ngũ Đài Sơn, ngài gặp một ông cụ nhưng không nhận ra đó là hiện thân của Bồ-tát Văn Thù. Vì vậy ngài bị đuổi xuống núi. Sau này ở trong hội Ngưỡng Sơn, ngài khế ngộ bản tâm, được cử chức Điển tọa. Một hôm ngài đang nấu cháo, thấy Bồ-tát Văn Thù hiện lẫn trong khói của nồi cháo. Ngài cầm cây dằm quậy cháo đập, nói “Văn Thù là Văn Thù, Văn Hỷ là Văn Hỷ”. Hồi còn mê muốn gặp Bồ-tát, Bồ-tát hiện không biết. Bây giờ đã ngộ đạo, Bồ-tát bên ngoài hiện đến không nhận. 

Một khi đã nhận đã sống được với cái thực của mình rồi, dù cho cảnh duyên bên ngoài có hấp dẫn tới đâu, cũng không bì được với cái thật ấy. Anh em có một niệm không bình yên, không làm chủ với các hiện tượng bên ngoài, dù lúc đó Phật hiện, Bồ-tát hiện vẫn là ma sự, không nên lầm lẫn. Tại sao? Vì nó là thuộc bên ngoài. Công phu của chúng ta cốt nhận ra cái thật sẵn có của mình. Bằng mọi cách, trong sinh hoạt đời thường, chúng ta sống được với tri kiến Phật của mình, thì không bị thinh trần dẫn, không bị pháp trần kéo, không mắc mứu và trôi giạt. 

Chỗ này các thiền tăng phải nghiệm thật kỹ, nắm thật vững, đi vào công phu cho sâu sắc, chúng ta mới an ổn toàn bị. Huynh đệ nhớ dè dặt từng chút, đối với các sự việc, xem tâm như thế nào? Nếu còn buồn vui chao đảo là chưa ổn, chưa tu tiến. Nghe người ta gọi mình là Thượng tọa, thấy vui vẻ, việc gì cũng dễ chấp nhận. Nhưng nếu họ chỉ mặt gọi thằng này thằng nọ, nghe khó chịu. Họ nói gì cũng không muốn nghe, nếu có nghe thì bực bội, không ưng thuận việc nào cả. Những thứ đồ bỏ như thế mà hại mình vô cùng. Cho nên trong công phu tu hành phải chính chắn xem xét lấy mình. Chúng ta chưa phải thánh hiền thì đừng bao giờ lầm, để bị mất mình. 

Ngay trong giai đoạn có thể lo cho mình, sửa sang tu tập, các huynh đệ cố gắng. Làm sao nhìn lại mình, tập trung công phu để có năng lực. Lúc đầu chúng ta làm tiêu mòn những vọng niệm, không để nó kéo lôi. Vào Xa-ma-tha tức là dừng được, cắt đứt những vọng tưởng, những dấy niệm. Dần dần vào sâu trong định, đến chỗ dứt bặt hết thì trí tuệ hiện tiền. Đến được chỗ định tuệ đẳng trì thì tự tại giải thoát không còn là chuyện mơ hồ viển vông nữa.

Cổ Linh Thần Tán nhắc: 

Linh quang riêng chiếu,

Vượt khỏi căn trần,

Bày thể thường chân,

Chẳng kẹt văn tự.

Ngài muốn nói trong thân tứ đại ngũ uẩn, nếu chúng ta phá được những lầm chấp, những mê đảo thì sẽ được linh quang riêng chiếu. Cái đó vượt khỏi căn trần, nó là cái chân thường, không bị kẹt vướng ở đâu. 

Cổ Linh Thần Tán học đạo với ngài Bá Trượng. Sau khi sáng được việc lớn trở về hầu thầy tổ. Thầy ngài ở quê, chưa có cơ hội học đạo nên còn vướng mắc. Một hôm Thần Tán đứng hầu, thầy ngài đang ngồi đọc sách bên cửa sổ có dán giấy. Bấy giờ có con ong muốn bay ra ngoài, mà bị lớp giấy chắn ngang nên chui không được. Ngài ứng khẩu nói:

Cửa Không chẳng chịu ra,

Quá ngu chui cửa sổ,

Giấy cũ trăm năm dùi,

Ngày nào dùi được phủng.

Mấy câu kệ làm động đến thầy, thầy thấy lạ. Lần khác thầy đi tắm, ngài làm thị giả kỳ lưng cho thầy. Ngài vỗ vào lưng thầy nói: Điện Phật đẹp mà Phật chẳng thánh. Thầy ngài nghe vậy quay lại hỏi “Ngươi đi học được cái gì mà về đây nghe nói những lời lạ thường như vậy”. Ngài trình bày sự thật. “Con được thầy cho đi học đạo, tới pháp hội của tổ Bá Trượng, con đã sáng nên rất mang ân thầy. Bây giờ đến lúc con phải đền ân thầy”. 

“Điện Phật đẹp mà Phật không thánh” nghĩa là sao? Nghĩa là thân ngũ uẩn này giống như điện Phật, đầy đủ oai nghi tướng tốt v.v... nhưng không nhận ra tánh giác. Chỉ có điện Phật thôi chứ Phật không thiêng, vì Phật chưa giác. Cũng thế, mỗi chúng ta đều có điện Phật, mà không sống được với ông Phật của mình thì như ngài Cổ Linh nói điện Phật đẹp mà Phật không thánh. 

Tiết này lấy Bồ-tát Hoa Đức làm hợp cơ, trong kinh văn nói Bồ-tát Hoa Đức được Pháp Hoa Tam-muội, tức chứng được Pháp Hoa tam-muội. Nói Hoa, đó là tri kiến. Còn Đức là diệu thể của các đức đầy đủ trong bản tánh. Tóm lại, nói hoa đức là nhằm tiêu biểu cho tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm, cũng chính là nghĩa minh tâm kiến tánh vậy. Tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm là sao? Tánh nghe của mình bình thường, không kéo đi đâu hết, tâm sáng suốt không dính theo vật. Nếu nghe mà dính theo cái bị nghe, đó không phải là tánh nghe nữa, mà gọi là bỏ tánh nghe theo thinh trần bên ngoài. Minh tâm cũng vậy, nếu đối vật dính mắc, chạy theo thì không còn minh tâm, mà bị vật chuyển. 

Nói Pháp Hoa Tam-muội. Pháp tức là Diệu tánh chân như sẵn có. Hoa tức tánh ấy đủ Diệu năng Tri kiến thanh tịnh. Tam-muội hoặc bảo là Tam-ma-đề, đây nói rằng chánh thọ, cũng gọi rằng chánh định. Lại gọi là định tuệ đẳng trì, tứ là nghĩa chánh quán vậy. Đây nói rõ, chính được đại định sẵn có tri kiến chân như, cũng là phá lớp vọng tưởng hư minh của thọ ấm thứ hai.

Muốn phá lớp chấp thứ hai gọi là thọ ấm, chúng ta phải có định tuệ đầy đủ. Định là tai nghe tiếng mà không chạy theo tiếng, tuệ là biết nó không thật, nên không dính mắc. Có định có tuệ, không thiên lệch gọi là định tuệ đẳng trì. Xa-ma-tha là chỉ. Ví dụ người ta chọc cho mình nổi nóng, nhưng mình không nổi nóng. Đó là Xa-ma-tha, là chỉ, là dừng. Nói theo danh từ bình dân nó như cái thắng. Huynh đệ nên có một cái thắng thật tốt, cần thắng thì thắng lại, đừng để tuột dốc. Chúng ta không bị âm thanh kéo lôi là có định. Mình biết nó không thật nên không chạy theo. Cái biết không thậttrí tuệ Bát-nhã. Lục tổ dạy đó là định tuệ đồng đẳng, hễ có định là có tuệ. Có định mà không có tuệ, gọi là si định. Có tuệ mà không địnhđiên đảo vọng tưởng. Pháp tu thiền dạy chúng ta thực hành như vậy. 

Phẩm này nằm trong giai đoạn triệt phá ấm thứ hai. Trong kinh Lăng Nghiêm, sau khi Phật chỉ cho A Nanđại chúng thấy được cái Diệu tịnh minh thể rồi, qua giai đoạn tháo gỡ các nút gút, tức tới công phu triệt phá ngũ ấm. Đến đây, Bồ-tát Diệu Âm đã tự tại đối với các âm thanh, phá được cảm thọ. Phá được thọ ấm là một bước tiến rất lớn đối với hành giả tu thiền như chúng ta, không thể xem thường được. Như trời đang nắng nóng, chúng ta ngồi thiền trong thất nhỏ, mồ hôi nhễ nhại. Có Phật tử đem cúng dường cho một ly nước mát dịu, thấm vào cổ họng nghe thật dễ chịu. Sau cái dễ chịu đó mình thích. Sau cái thích đó còn nhiều chuyện khác nữa. Nhưng nội cái thích thôi, mình buông dễ không? Không dễ. Bây giờ ở độ cao tỉnh giác, chúng ta phải thấy nó không thật, đó là dùng trí tuệ Bát-nhã để phá thọ ấm. Biết dấy niệm không thật, thì không bị nó dẫn, không chạy theo nó.

Nói tóm lại, phẩm Diệu Âm là nói đến giai đoạn phá thọ ấm. Căn nêu lên trong phẩm này là nhĩ căn. Từ căn nghe chúng ta buông hết những lầm chấp để vào chánh định, được tự tại.

Kệ rằng:

Đảnh Phật thần quang tịch chiếu thông,

Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,

Rộng phô tam-muội nêu tri kiến,

Bày hiện Nhất thừa, rõ đạo tông,

Thể dụng về như, nghe tức tiếng,

Căn trần rốt ráo, sắc mà không,

Chương này mượn huyễn bày chân tế,

Giáo thể từ nghe vào thật dòng.

Phẩm Diệu Âm dạy phá được thọ ấm rồi, mượn chỗ huyễn bày cái thật. Hy vọngquyết tâm của huynh đệ chúng ta trước nhất là nhận ra tánh giác của mình, kế đến phát huy tròn đầy được như Phật mới vừa lòng mình. Con đường tu hành cho đến thành Phật, ta nguyện sấn bước đến cùng. Nói như thế nghe mồ hôi lạnh toát ra cho nên ta phải gan, phải là tráng sĩ chặt tay trên Tung Sơn thuở nào. Chúng ta học chánh pháp, mỗi ngày một tươi nhuận, một thể nhập, biểu trưng ra mọi sinh hoạt, qua các giác quan là sự sáng suốt, tỏ rõ, an vui. Mong anh em lúc nào cũng tích cực tu học như lời Phật tổ dạy. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24032)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27522)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29355)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20946)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22165)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24425)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29315)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29232)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20645)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28328)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33232)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39671)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19406)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24857)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21775)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29169)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20490)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21264)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35379)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24579)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31378)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26256)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20311)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22996)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30113)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21641)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20313)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20812)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28835)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34782)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22591)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21409)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29555)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35208)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28861)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37945)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21362)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27058)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24102)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20885)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22521)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25164)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant