Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13 Phẩm Pháp Cúng Dường

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6506)
13 Phẩm Pháp Cúng Dường

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

13. PHẨM PHÁP CÚNG DƯỜNG

Pháp, dịch nghĩa chữ Phạn Sanskrit Dharma hoặc chữ Pali Dhamma, có nhiều nghĩa hết sức rộng rãi. Cổ đức thường định nghĩa Pháp là: Nhậm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải, nghĩa là nắm giữ tự tánh vật nào đi vật đó, có những quy tắc riêng biệt để phát sinh lời giải thích của vật đó. Thí dụ: Cái bàn hình chữ nhật hoặc vuông hoặc tròn, bằng gỗ hoặc sắt hoặc đá, có bốn chân, dùng để bầy sách vở hoặc bát đĩa ăn cơm, ai thấy cũng biết ngay là cái bàn. Vậy cái bàn là một pháp. 

Không những pháp là những vật có hình tướng, có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm được, mà những vật không hình tướng như tham giận buồn vui, khổ sướng, các tư tưởng cao siêu hoặc thấp hèn cũng là pháp, cho đến các vật không có thật như lông rùa sừng thỏ, trứng trâu... cũng là pháp. Tóm lại, mọi sự mọi vật có thật hay tưởng tượng, vật chất hoặc tinh thần đều là pháp. 

Nhưng chữ Pháp ờ đoạn kinh này chỉ có nghĩa là lời dạy của chư Phật, là các kinh điển cao quý nhiều lợi ích, là các pháp môn tu hành đưa chúng sinh tới bờ giác. 

Cúng dường là lối đọc trệch của hai chữ Cung Dưỡng. Cung là cung cấp, lo cho đầy đủ. Dưỡng là nuôi lớn. Cung dưỡngcung cấp vật thực để nuôi lớn thân tâm. Ngoài lương thực, tiền bạc, quần áo, thuốc men, nhà ở, vật dụng để nuôi thân, còn có kinh kệ sách vở, lời khuyên dạy, nếp sống thanh cao để làm gương... để nuôi lớn tâm tánh, tất cả đều là vật cúng dường. Tại sao lại đọc trệch ra cúng dường ? Vì hai chữ cung dưỡng chỉ có ý nghĩa tầm thường như con cung dưỡng cha mẹ, người dưới cung dưỡng người trên các thức ăn vật chất để nuôi thân cho no ấm mà thôi, không có vấn đề khuyến khích tu hành, tu tâm dưỡng tánh. Dùng chữ cung dưỡng e tầm thường thấp thỏi quá nên người xưa đọc trệch ra cúng dường để tỏ bầy lòng tôn kính ngôi Tam Bảo Phật Pháp Tăng. Cúng dường bao gồm mọi sự hy sinh tiền bạc, vật thực, thời giờ, sức khỏe, có khi luôn cả thân thể và sinh mạng nữa. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát, ngài Hỷ Kiến Bồ Tát đốt tay rồi đốt thân để cúng dường Phật. Nãm 1963 tại Sài Gòn, Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu để cúng dường Tam Bảo và nguyện dùng ngọn lửa từ bi soi sáng nhà cầm quyền lúc đó đừng kỳ thị tôn giáo. Đây là những tỷ dụ nói lên sự hy sinh cao cả, quên thân mình, vì chúng sinh

Cúng dường có hai thứ: 
1) Tài cúng dường, gồm tiền bạc, vật thực, quần áo, thuốc men.... 
2) Pháp cúng dường

Tài cúng dường đem lợi ích an lạc cho thân. Pháp cúng dường đem lợi ích an lạc cho tâm. Pháp cúng dường có nhiều cách, nhiều ý nghĩa từ thấp lên cao: 
1) In kinh, dịch sách Phật để ấn tống, truyền bá Pháp Bảo
2) Nghe lời Phật dạy, tin hiểu, thọ trì, giải nói, thuyết pháp độ sinh
3) Truyền dạy các pháp môn tu hành như niệm Phật, tu thiền, trì chú, tụng kinh, để mọi người y pháp tu hành
4) Tinh tấn tu hành, giữ gìn Chánh Pháp, trưởng dưỡng Pháp Thân, tiếp nối ngôi Tam Bảo
5) Theo Kinh Hoa Nghiêm, Pháp cúng dườngcúng dường bằng cách sống và làm theo lời Phật dạy để lợi íchhóa độ chúng sinh, chịu thay thế hết thảy đau khổ cho chúng sinh, siêng tu thiện căn, không rời sự nghiệp Bồ Tát, không bỏ Tâm Bồ Đề rộng lớn. Thực hành cúng dường như vậy mới là chân thật cúng dường, đó là Pháp Cúng Dường bậc nhất. 
6) Hy sinh tất cả mọi sự mọi vật để đạt tới Chân Lý, rồi đem Chân Lý ra truyền bá cứu giúp mọi loài chúng sinh khiến họ bỏ dữ làm lành, được giác ngộ giải thoát, đó là pháp cúng dường cao cả nhất. 

Bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân bạch Phật, tán thán Kinh này và phát nguyện cúng dường ủng hộ những người nào tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, giải nói kinh này. Đức Thế Tôn khen ngợi vị Trời này và dạy thêm: Kinh này rộng nói đạo vô thượng chánh đằng chánh giác bất khả tư nghị của chư Phật quá khứ, hiện lại và vị lai. Nếu ai thọ trì đọc tụng cúng dường Kinh Pháp này thời chính là cúng dường chư Phật quá khứ, hiện tạì và vị lai vậy. 

Thích Đề Hoàn Nhân, phiên âm chữ Phạn Sakya Devanam Indra, dịch là Đế Thích, một vị Trời cai quản cõi Trời Đạo Lợi, thuộc Dục Giới. Vị Trời này thường hay tới nghe Phật thuyết pháp hiện thân ra tán thán, phát nguyện hộ trì Phật Pháp. 

Bất khả tư nghị tự tại thần thông quyết định Thật Tướngbộ kinh diễn tả Thật Tướng, Bản Thể, Chân Lý một cách cao siêu không thể nghĩ bàn được, nếu ai thực hành đúng theo thì nhất định có được thần thông tự tại nghĩa là tự do quyết định sự đi lại ra vào ba cõi, không còn bị sinh tử luân hồi chi phối nữa. 

Đức Phật so sánh tài cúng dường nghĩa là dùng tiền bạc, vật thực, bảy báu, dựng tháp cúng dường vô lượng chư Phật trong nhiều kiếp... không bằng Pháp cúng dường. Tại sao? Tài cúng dường dù lớn lao đến đâu chăng nữa cũng chỉ đem lại phước báo hữu lậu nơi cõi Trời và người, khi hết phước báo vẫn còn phải chịu luân hồi sinh tử. Tài cúng dường chỉ gieo nhân tốt để rồi hưởng quả lành là phước báo nơi thân, còn pháp cúng dường làm nẩy sinh công đức vô lậu nơi Tâm, đưa đến quả vị giác ngộgiải thoát. Phước báocông đức khác nhau rất xa, như tích truyện giữa Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma và Vua Lương Võ Đế đã nói rõ. Phước báo có hạn lượng, dù lớn bao nhiêu cũng có lúc hết, còn công đức tức là quả Bồ Đề thì không có hạn lượng, không tính đếm được. Do đó, pháp cúng dường cao quý hơn tài cúng dường rất nhiều. 

Đức Phật nói thêm với vị Vua Trời: Về quá khứ: có Phật hiệuDược Vương ra đời, có Vua Bảo Cái cúng dường Đức Phật các đồ cần dùng mãn năm kiếp, rồi bảo ngàn người con cũng phải đem thân tâm cúng dường Phật. Các con vâng lời, trong đó có môt người con tên là Nguyệt Cái suy nghĩ có việc cúng dường nào thù thắng hơn không? Trên hư không có tiếng nói: Pháp cúng dường là hơn hết. Vương Tử Nguyệt Cái không biết liền đến hỏi thì được Phật Dược Vương dạy rằng: Pháp cúng dường là kinh thâm diệu của chư Phật nói ra, là ấn Đà La Ni, trên hết các kinh, nếu ai nghe tin hiểu thọ trì đọc tụng phân biệt giải nói chỉ bày rành rẽ cho chúng sinh, giữ gìn Chánh Pháp, đó gọi là Pháp cúng dường. Nắm vững lý bốn đế, mười hai nhân duyên, vô thường vô ngã, y theo bốn điều (Tứ Y), đó là pháp cúng dường thù thắng hơn hết. 

Vương Tử Nguyệt Cái nghe pháp xong liền cởi áo đẹp và đồ trang sức nơi thân đem cúng dường Phật Dược Vương, được thọ ký sau này giữ gìn được thành trì Chánh Pháp. Vương Tử Nguyệt Cái liền xuất gia tu hành, hóa độ trăm muôn ức ngườì, chính là tiền thân của Đức Thich Ca. 

Nguyệt Cái là cái lọng hình tròn như mặt trăng, các Vua Quan dùng để che mưa nắng bụi bậm. Bảo Cái là lọng lớn hơn, quý hơn, tượng trưng cho Vua Cha, còn Nguyệt Cái nhỏ hơn, tượng trưng cho người con. Lọng chịu đựng cho nắng mưa gió bụi bám vào để che chở cho Vua Quan; Vương Tử có tên là Nguyệt Cái là có ý nói vị Vương Tử này tu hạnh nhẫn nhục, chịu đựng mọi khổ não thử thách để giữ gìn Chánh Pháp. Vị này cởi áo đẹp và đồ trang sức nơi thân để cúng dường Phật, tỏ lòng tôn kínhbiết ơn. Phật Dược Vương đâu có cần dùng các y phục và đồ trang sức, đây có ý diễn tả Vương Tử Nguyệt Cái hy sinh tất cả tài sản quý báu cùng các thú vui vật chất từ trước vẫn cột chặt nơi thân, nay đem bỏ đi để đổi lấy Chánh Pháp của Phật, tu hạnh nhẫn nhục để hàng phục mọi ma oán, cám dỗ của năm sự ham muốn (ngũ dục lạc): tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nghỉ, vị Vương Tử này đã bỏ những thú vui vật chất nơi thân để được những công đức nơi Tâm, giữ gìntruyền bá rộng rãi Chánh Pháp của Phật, hóa độ vô lượng chúng sinh, trải qua nhiều đời nhiều kiếp được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni

Đức Phật Thích Ca kết luận: Này Thiên Đế, Pháp cúng dườngthù thắng cao cả hơn hết trong các việc cúng dường, không gì sánh kịp, các ông phải lấy Pháp cúng dườngcúng dường các Đức Như Lai. Thực hành Pháp cúng dường là gieo nhân lành đưa đến quả vị Phật hoàn toàn giác ngộgiải thoát

Ẩn ý của phẩm này là đề cao Pháp cúng dường, nghĩa là đem Chánh Pháp ra cúng dường. Cúng dường ai? Phật đâu cần chúng ta cúng dường, Ngài chỉ muốn chúng ta đem Chánh Pháp ra hoá độ chúng sinh, vì cứu giúp chúng sinh tức là cúng dường mười phương chư Phật. Cúng dường chư vị Tăng Ni chăng? Dâng cúng tiền bạc, quần áo, thuốc men, giường nằm dĩ nhiên sẽ đem lại phước báo, nhưng nhân vật chất hữu lậu chỉ đem lại quả vật chất hữu lậu mà thôi, thí dụ: được giầu sang, mạnh khỏe, danh vọng, sống lâu... nhưng khi hưởng hết phước thì lại theo dòng đời trôi chảy mà chịu quả báo luân hồi. Đừng nghĩ rằng đem tài vật cúng dường chư vị Tăng Ni là đủ rồi, chư vị đó sẽ cứu độ cho mình thoát khỏi cảnh khổ, được nhiều hạnh phúc an lạc. Như trên đã nói, tài cúng dường đem lợi lạc cho thân, mà thân thì vô ngã vô thường, không bền lâu, chỉ có Pháp cúng dường mới đem lại công đức cho Tâm, nhân vô lậu đem lại quả vô lậu, không có hạn lượng.

Muốn thực hành Pháp cúng dường không phải dễ, không phải chỉ in kinh, đọc kinh, giải nghĩa kinh, mà phải sống theo kinh, mang tự lực ra tu hành các pháp môn chân chánh, nhẫn nhục chịu đựng nhiều thử thách đắng cay, phát Tâm Bồ Đề quên mìnhchúng sinh, chẳng cầu phước báo Trời người mà chỉ phát nguyện mở mang trí huệ để hóa độ chúng sinh; thực hành Pháp cúng dường còn phải hy sinh nhiều thứ quý báu của mình, có khi mất một phần thân thể hoặc tính mạng nữa, có bỏ cái này mới có cái kia, có bỏ của báu thế gian mới có của báu xuất thế gian, bỏ phước báu Trời người để vào trí huệ Hiền Thánh, bỏ sinh tử đổi lấy Niết Bàn, bỏ tự lợi để rộng truyền Chánh Pháp... Người nào thực hành được Pháp cúng dường như thế là đi đúng con đường của chư Phật, chư Bồ Tát đã đi, tiếp nối hạnh nguyện của bậc Thánh Hiềntiếp tục thắp sáng ngọn đèn trí huệ chỉ đường cho chúng sinh thoát kiếp luân hồi, đi về nẻo giác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18399)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16743)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13325)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12809)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13645)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11804)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14327)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17827)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22699)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13519)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15648)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16157)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11431)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15763)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13218)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 22018)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16287)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19241)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24953)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17764)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17150)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18696)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19129)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18945)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14467)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23164)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28630)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15248)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13761)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16581)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143864)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16388)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17496)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47454)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39212)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15838)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23231)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16822)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14332)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13933)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17295)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14389)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16961)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 28031)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50256)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38572)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28599)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52250)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35902)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32930)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50864)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63770)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49765)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57094)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47579)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39428)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38488)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36614)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32252)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46719)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant