Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14 Phẩm Chúc Lụy

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6886)
14 Phẩm Chúc Lụy

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

14. PHẨM CHÚC LỤY

Chúc là phú chúc, phó chúc, dặn dò chỉ bảo
Lụy là gánh vác nặng nhọc

Chúc lụy là dặn dò người sau tiếp tục gánh vác công việc nặng nhọc. Đức Phật đem bộ kinh quý (Pháp Bảo) này trao cho các đệ tử dặn bảo họ giữ gìn cẩn thận, dù cực nhọc cũng phải cố gắng để truyền bá trong các đời sau này. 

Đây là lời kết luận một bộ kinh, Đức Thế Tôn ân cần dặn bảo các đệ tử phải thay Phật mà lưu truyền kinh này không để thất lạc. Đây là lời cuối của Đức Phật nói trong mỗi bộ Kinh, có khi Ngài rời sang chỗ khác, có khi Ngài sắp nhập Niết Bàn, nên lời phú chúc lúc chia tay bao giờ cũng cảm động, lòng Phật thương chúng sinh như mẹ hiền thương con nhỏ, rộng rãi bao la như biển cả. Ngài dặn dò chỉ bảo thật chu đáo thắm thiết ân nghĩa, mong các đệ tử ghi nhớ mà thực hành

Bồ Tát Di Lặc là người được Đức Phật Thích Ca thọ ký sẽ tiếp nối Đức Thích Ca đắc quả vị Phật trong một đời nữa, kế thừa Đức Thích Ca để giáo hóa chúng sinh cõi Ta Bà. Đây chính là lời người đi trước căn dặn người đi sau vậy. 

Có hai hạng Bồ Tát
1) Bồ Tát mới học gọi là Bồ Tát sơ pháp tâm, chưa thâm nhập Bồ Tát Đạo, còn ưa những câu văn hay đẹp. 
2) Bồ Tát tu hành đã lâu, không nhiễm trước nơi kinh điển thậm thâm, không sợ sệt, hiểu rõ nghĩa lý rồi thanh tịnh thọ trì đúng như lời kinh mà tu hành

Không nhiễm trước là không đắm nhiễm chấp trước vào văn tự ngữ ngôn. Đây là ý Phật muốn dạy các đệ tử hãy nương theo nghĩa lý cao siêu chứ đừng nương theo câu văn lời nói (Y Nghĩa Bất Y Ngữ). Kinh Phật dùng nhiều tỷ dụ ám chỉ nghĩa bóng răn đời, người đọc cần tìm ra nghĩa ẩn mà tin hiểu thực hành. Ví như người ăn mía, chỉ nhai mía uống nước ngọt rồi nhả bã ra, chỉ lấy phần cốt yếu mà bỏ qua phần xác xơ. 

Pháp thậm thâm chưa từng nghe: đây là để phá lòng nghi của người đời sau. Những người tu theo Nam Tông (Tiểu Thừa) không công nhận một số kinh Bắc Tông (Đại Thừa) mà họ cho là ngụy tạo, không phải chính Đức Thích Ca nói, mà do các đệ tử Phật sau này viết ra. Phái Bắc Tông đả phá quan niệm hẹp hòi này và đề cao công đức người hộ trì giải nói kinh điển sâu xa cao siêu huyền diệu. Nếu ai không chịu gần gũi cung kính cúng dường người thọ trì kinh này, hoặc còn dùng lời nói xấu, thì đúng là người mới học, chỉ tự làm tổn hại mà thôi, không được hưởng công đức do pháp thậm thâm này mang lại để điều phục tâm mình. Đây là một cách cải chính lời xuyên tạc của Nam Tông, và đề cao cùng bảo vệ kinh điển Bắc Tông

Đến đây, Đức Phật e các người theo Bắc Tông có lòng kiêu mạn khinh chê phái Nam Tông nên Ngài dạy thêm để hòa hợp hai phái: 
1) Đừng khinh chê các Bồ Tát mới học, mà cần phải dạy bảo họ. 
2) Dù đã tin hiểu pháp thậm thâm, nhưng đừng chấp tướng phân biệt cao thấp. 

Chỉ có một giáo pháp duy nhấtNhất Thừa Phật Đạo, nhưng Phật đã phương tiện chia là hai, làm ba đoạn đường nối tiếp và bổ túc cho nhau. Chỉ có một hạng đệ tử Phật, tất cả đều là con Phật, dù là Bắc Tông Đại Thừa hay Nam Tông Tiểu Thừa, dù là xuất gia hay tại gia. Đừng đem lòng chấp tướng phân biệt mà quên cái Bản Tánh Nhất Như Bình Đẳng

Bồ Tát Di Lặc nhận lời phú chúc của Đức Thích Ca, quyết định xa lìa các lỗi chấp trước và hứa sẽ giúp người đời sau nhận được giáo lý Đại Thừa, ghi nhớ thọ trì đọc tụng diễn nói cho người khác, đó là tự giác giác tha

Các Bồ Tát và bốn vị Thiên Vương đều chắp tay vâng lời Phật dạy, nguyện gìn giữtruyền bá kinh này, ủng hộ chúng sinh đời sau nghe hiểu, suy ngẫm và tu hành (Văn, Tư, Tu) để được lợi ích an vui. 

Ngài A Nan được nghe hiểu, thọ trì rồi nói lại, nhờ vậy bộ kinh này được lưu truyền tới các đời sau. Đức Phật đặt tên Kinh này là Duy Ma Cật Sở Thuyết, cũng gọi là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Pháp Môn

Trưởng Giả Duy Ma Cật, các Ngài Văn Thù Sư Lợi, Xá Lợi Phất, A Nan... và các hàng Trời người, A tu la, tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng, cung kính tin nhận vâng lời làm theo. 

Đây là phần lưu thông chấm dứt quyển kinh, mọi hàng thính giả đều hoan hỷ phụng hành.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31293)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18582)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25164)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23794)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28961)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20892)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31465)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25573)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29738)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22540)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25741)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23306)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25762)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23758)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40625)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23364)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22481)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23522)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24339)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41132)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19017)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20510)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27746)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38145)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24517)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22739)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26570)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53601)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23631)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21123)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30864)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21073)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38809)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20567)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20616)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27075)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28101)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37174)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55194)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37998)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14579)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10660)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant