Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11- Bồ Tát Hạnh

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7437)
11- Bồ Tát Hạnh

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Bồ Tát Hạnh

1- Sự thay đổi ở vườn Yêm-la

Chủ yếu của kinh Duy Ma Cậtthuyết minh về hạnh Bồ-tát, hạnh rộng lớn nguyện làm đẹp cuộc đời. Từ tâm địa thấp nhỏ của phàm phu muốn đổi sang tâm rộng lớn, cần có một sự chuyển biến. Những phẩm trước, phần chuẩn bị đã xong, đến phẩm này chính thức xuất hiện tâm nguyện Bồ-tát. Cho nên đất đai hốt nhiên rộng lớn đẹp đẽchúng hội cũng đều sáng chói như vàng ròng. Điều này cho thấy phù hợp với câu mở đầu của kinh, là “Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”. Tâm nguyện rộng lớn là điều kiện căn bản cho hạnh Bồ-tát, tâm rộng cho nên đất đai vườn tược rộng, điều đó báo trước rằng Bồ-tát sẽ đến, nên trong văn kinh Phật bảo A-nan:

- Duy-ma-cật, Văn-thù và đại chúng muốn đến thăm ta.

Ở bên thành Tỳ-da-ly, Văn-thù cũng nói với Duy-ma rằng:

- Nên đi, nay chính là đúng lúc. Có nghĩa là tâm mọi người đã đến đúng thời phát khởi.

Duy-ma-cật dùng thần lực đem hết cả đại chúng cùng tòa ngồi, để trong tay hữu mà đưa đến trước Phật. Sự di chuyển quá ư dễ dàng. Bởi vì nhà thiền có câu: “Tất cả cõi nước nằm trong con mắt của sa-môn”, tâm lượng nhỏ hẹp nên phân biệt đây kia ngăn trở, khi tâm lượng dung thông thì chốn chốn nơi nơi đều là nhà mình. Biểu hiện thần thông của Duy-ma-cật cho thấy là vừa phát ý liền đến, vừa mở tâm liền rộng, chẳng có giới hạn.

Các chúng Bồ-tát đến nơi đảnh lễ Phật, ngồi yên nơi tòa. Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất:

- Ông thấy hành động thần lực tự tại của Bồ-tát chăng?

Ngài Xá-lợi-phất xác nhận đó là điều không thể đo lường, không thể nghĩ bàn. Vì trí hiểu biết hạn cuộc thế gian không thể nào thông cảm được tâm Bồ-tát, như khi chúng ta đọc chuyện tiền thân Phật bố thí thân mình cho cọp đói, chúng ta vẫn không nghĩ ra có người như vậy. Trong cái vô biên vô cùng thì kiến thức chúng ta như con đom đóm, chỉ có Bồ-tát với Bồ-tát mới thông cảm. Và các Ngài khuyên mình “Đừng suy nghĩ đo lường”, tắt hết so đo mới đến được cõi Phật.

2- Giá trị cơm Hương Tích

Ngài A-nan bỗng nghe mùi hương lạ, trước chưa từng có, nên hỏi Phật. Phật bảo là mùi hương từ lỗ chân lông của các vị Bồ-tát. Bồ-tát đến cõi này trang nghiêm quốc độ, đem mùi hương đến giới thiệu. Mùi hương không phát xuất từ nước hoa, mỹ phẩm tầm thường, mà phát xuất từ cơm Hương Tích. Cơm đó có công năng làm Phật sự, như một chất liệu Phật pháp, chúng sanh nương nơi cơm pháp này thành tựu đạo nghiệp. Duy-ma-cật bảo với A-nan về giá trị của cơm Hương Tích, tùy theo người ăn:

- Nếu là hàng Thanh văn chưa đắc quả, ăn cơm ấy đắc Tứ quả, cơm mới tiêu – Không phải là loại cơm khó tiêu, nhưng vì còn lậu hoặc nên cơm không tiêu, ý là như thế.

- Người chưa phát ý Đại thừa thì ăn cơm này đến khi phát ý Đại thừa mới tiêu.

- Người đã phát ý, ăn cơm này đến khi được Vô sanh nhẫn mới tiêu.

- Người được Vô sanh nhẫn ăn cơm này đến địa vị Nhất sanh bổ xứ (Là Bồ-tát còn một đời thành Phật) mới tiêu.

Như vậy ăn cơm này chỉ có tiến chớ không lùi, giúp người tu tiến thẳng tới chỗ rốt ráo. Cơm dùng để nuôi sống thân mạng, mà cơm đây nuôi sống Sự giải thoát, khi nào còn một chút triền phược thì pháp môn tu tập vẫn còn cần thiết như cơm cần cho người.

3- Những phương tiện Phật sự

Nhân một bát cơm cõi Phật Hương Tích có thể làm Phật sự lớn lao, đức Phật giới thiệu những phương tiện của chư Phật dùng để hóa độ chúng sanh, ứng hợp căn cơ ý thích của mỗi loài mỗi cõi mà có ra những cách thức làm Phật sự.

Có cõi nước dùng ánh sáng của Phật, như chúng ta dùng đèn trang trí tượng Phật, tạo nghiêm sức và gây tín tâm cho người, cũng là dùng ánh sáng làm Phật sự

Có cõi nước dùng các vị Bồ-tát làm Phật sự, Bồ-tát như các vị hảo tâm, các nhà từ thiện nguyện cứu trợ chúng sanh. Dùng người biến hóa của Phật, Phật thường ẩn đi thân tướng hảo, để các hóa thân ứng hợp với tâm chúng sanh, vì người biến hóa thì thiên hình vạn trạng. Một người Châu Phi chỉ cảm phục người Châu Phi, cũng có vị bác sĩ Tây phương hy sinh vào nước chậm tiến để cứu độ, đó cũng là người biến hóa của Phật.

Dùng các hình thức như cây Bồ-đề, y phục ngọa cụ của Phật để làm Phật sự, như chúng ta chiêm bái Thánh tíchkhởi tâm cảm mến.

Cho đến dùng hư khônglàm Phật sự. Hư không như nhiên chẳng đến chẳng đi, buông hết mọi thứ để tâm trống rỗng như hư không thinh lặng, cũng là một cách tu.

Dùng các thứ vô thường mau chóng chợt có chợt không, hoặc là không thật như giấc mộng, những cách này dễ tác động đến tâm lý chúng sanh. Có chứng kiến ảo ảnh thay đổi, có thấy được sự phù du, như tấn tuồng trên sân khấu, chúng ta mới thức tỉnh mà lo tu tập.

Nói rằng tất cả cách thức chúng ta gặp hoặc mọi oai nghi ngồi đứng của chư Phật đều là Phật sự, cho đến trần lao phiền não cũng đáng trân trọng, vì đó là hình ảnh Phật sự. Đó là với tâm Phật thì nhìn đâu cũng là Phật. Phần này Phật giới thiệu những phương tiện giáo hóa, cũng là muốn nhắc nhở chúng ta khi tiếp cận với đời sống hằng ngày, mọi âm thanh sắc tướng đều là con đường đưa chúng ta vào đạo. Ngài Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ, ngài Hương Nghiêm nghe tiếng sỏi, một ngón tay của Câu Chi, Thủy Lão ăn một cái đạp của Mã Tổ… Tất cả đều là Phật sự, đều đưa người qua một phen chuyển biến, đều biến đất đai thành vàng ròng.

4- Vào pháp môn của tất cả chư Phật

Chư Phật dùng ngay cái mỏi mệt sợ hãi của chúng sanh về Tứ ma, về tám muôn bốn ngàn phiền nãolàm Phật sự. Ngay phiền não tức thành Bồ-đề. Lục Tổ nói:

Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ-đề
Kháp như cầu thố giác.

Để đánh tan ý niệm quý tiện sang hèn, phân biệt kia đây, ở đầu phẩm đã ảnh hiện sự dung thông. Đến đây đức Phật nhắc lại.

Bồ-tát vào pháp môn này, pháp môn Bất nhị, khi thấy tất cả cõi Phật trang nghiêm đẹp đẽ thì đừng lấy đó làm mừng, không tham trước không tự hào. Khi Bồ-tát thấy tất cả cõi Phật nhơ uế đừng sanh tâm ưu sầu, e ngại, tiêu trầm (thối lui).

Một câu này cũng cảnh tỉnh chúng ta, đối trước mọi cảnh tượng đẹp xấu đừng cho là quan trọng. Nên xem tất cả là Phật độ, là việc Phật, là hình ảnh Phật. Như thế mới mạnh dạn bước vào đời, phát tâm làm việc lợi ích. Nếu chọn lựa thì chắc là không ai thích ở uế độ, không thành tựu được hạnh Bồ-tát.

Phật nhấn mạnh rằng: Công đức của chư Phật bình đẳng, vì giáo hóa chúng sanh mà hiện Phật độ không bình đẳng. Có nghĩa là cõi nào cũng cõi Phật, không cần ưa đây chán kia. Một đóa hoa bên đường giá trị bao nhiêu? Như một cõi Phật không kém.

Ba câu:

- Câu thứ nhất là Tam-miệu Tam Phật-đà.

- Câu thứ hai là Đa-đà A-già-độ.

- Câu thứ ba là Phật-đà.

Ba câu này, ý nghĩa như nhau, đồng nói đến thân tướngdiệu dụng công năng của chư Phật đồng nhau. Ý nghĩa này dù nói đến tận kiếp số cũng không hết, vì còn dùng ngôn ngữ văn tự là còn giới hạn, vì mỗi hạt bụi là một cõi Phật với sức biến hóa không lường, trùm khắp xưa nay.

Ngài A-nan bạch Phật rằng: “Con từ nay không dám tự cho mình là đa văn”. Đây chỉ là tượng trưng cho việc xả bỏ Thanh văn mà hướng về Bồ-tát, nên Ngài từ chối danh vị của mình. Phật khuyến khích thêm bằng cách giới thiệu trí tuệ của Bồ-tát. Biển sâu còn có thể đo lường, nhưng thiền định, trí huệ, tổng trì, biện tài, công đức của Bồ-tát không thể đo lường.

Một chút thần thông của Duy-ma-cật đây, tất cả hàng Thanh văn biến hóa hết sức trong trăm ngàn kiếp, cũng không làm được.

5- Pháp môn Tận Vô tận giải thoát

Các Bồ-tát nước Chúng Hương xin đức Phật dạy cho vài pháp môn để trở về nước mình.

Phật dạy pháp môn: Tận Vô tận giải thoát. Tận là hữu vi, Vô tậnvô vi, pháp môn này giải thoát cả hữu vi vô vi, vượt ra ngoài hữu vivô vi.

Hữu vi là các pháp có hình tướng hoại diệt. Bồ-tát đi vào pháp môn bất tận hữu vi nghĩa là không để pháp hữu vi chấm dứt, chấp nhận hình tướng sanh diệt của chúng sanh. Thế nên đi vào đời mà không bỏ đại từ, đại bi, giáo hóa chúng sanh không chán mỏi. Chúng sanhtượng trưng cho tất cả phiền lụy bất an, Bồ-tát vì đã có chí kiên quyết nên vào chốn sanh tử không sợ sệt, đối với vinh nhục không buồn vui. Đó là thái độ:

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(TS. Vạn Hạnh)

Đối với sanh tử luân hồi tưởng như đi dạo trong lầu các. Có người hỏi thiền sư:

- Hòa thượng sau khi chết đi về đâu?

- Làm lừa làm ngựa.

- Rồi sau đó?

- Ta vào địa ngục.

- Hòa thượng là bậc đại thiện tri thức vì sao bị vào địa ngục?

- Ta không vào đó thì ai đến giáo hóa ông.

Một câu chuyện này cho thấy ý nghĩa Bồ-tát không chấm dứt Hữu vi, luôn dùng pháp dược của Phật đem giáo hóa chúng sanh, để biến các nơi khổ thành chỗ an vui, luôn ở trong hữu vi mà làm lợi lạc. Đó gọi là Bồ-tát không chấm dứt Hữu vi (Bất tận hữu vi).

Bồ-tát không trụ Vô vi là Bồ-tát không mắc kẹt trong Không. Quán sát vô thường mà chẳng chán thế gian. Quán sát Vô ngã mà luôn dạy người, dù người không thật, ta không thật. Quán lẽ Tịch diệt mà không ở trong Tịch diệt lặng lẽ. Quán vô lậu nhưng chẳng đoạn tuyệt các lậu.

Vô vi được hiểu như là chốn tịch diệt lặng lẽ, nhưng Bồ-tát với đại nguyện độ sanh lại quay về với chỗ rộn ràng sanh tử. Dù trong tâm không vướng mảy trần mà luôn cứu giúp người nghèo khổ. Biết ba cõi như mộng huyễn nhưng không làm ngơ với tiếng kêu cầu của chúng sanh. Biết các pháp hư vọng không thật nhưng luôn tu phước đức, thiền định, trí huệ. Đây là để trừ bệnh chấp Không, vì nếu quán các pháp Không rồi chẳng chịu tu tập, thì nguy hiểm hơn người chấp CÓ để sợ tội.

Tóm lại, Hữu vi là có, Vô vi là không. Bồ-tát vượt qua cả hai điều có - không, luôn hành hạnh đại bi cứu đời, đó là ý nghĩa bài kệ trong kinh Lăng Già:

Thế gian thường như mộng
Trí chẳng chấp Có - Không
khởi tâm đại bi.

Và cũng là pháp môn chẳng hết Hữu vi chẳng trụ Vô vi trong phẩm này.

Các Bồ-tát nghe Phật dạy xong, khen ngợi tán thán rồi trở về nước của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31230)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18548)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25120)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23750)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28903)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20836)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31425)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25522)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29690)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25695)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23247)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23712)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23332)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22422)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22063)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23493)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41059)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18961)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20460)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27706)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38082)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24453)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22660)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26503)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53541)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23583)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21068)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30814)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21042)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38762)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20516)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20559)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27026)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28068)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37121)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55163)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37967)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14520)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10635)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant