Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13- Pháp Cúng Dường

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7097)
13- Pháp Cúng Dường

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Pháp Cúng Dường

1- Thiên Đế phát nguyện

Khi Pháp – dưới hình thức kinh điểnxuất hiện ở đời, bởi mục đích là tạo phương tiện cho mọi người đến được bờ chân lý. Pháp có giá trị như ngọn đèn chiếu soi, như chiếc bè đưa người, như con đường an ổn giữa những rừng rậm mù sương. Pháp chính là lời dạy của Phật, lời hướng dẫn cần thiết của bậc Đạo sư, người thấy rõ chân lý tối hậu.

Ngày xưa khi các vị khất sĩ được nghe pháp xong, liền tán thán:

- Lành thay! Bạch Thế Tôn, như một vật sụp đổ được nâng lên, như một vật giấu kín được khám phá, như ngọn đèn được đốt lên trong đêm để những ai có mắt có thể trông thấy. Giáo lýđức Thế Tôn truyền dạy cũng như thế.

Và Dạ-xoa Alavaka, khi gặp Phật đã đặt câu hỏi:

* Vật sở hữu quý nhất của người là gì?

* Điều gì, nếu thực hành đúng sẽ đem lại hạnh phúc?

* Hương vị nào ngọt ngào hơn tất cả?

* Sống thế nào gọi là cao thượng nhất?

Phật trả lời:

* Niềm tin là vật sở hữu quý nhất.

* Giáo pháp, nếu thực hành đúng, sẽ đem lại hạnh phúc.

* Sự chân thật là hương vị ngọt ngào nhất.

* Sống với trí tuệ gọi là cao thượng nhất.

Giá trị của pháp lớn lao như thế, nên trong bộ phận các kinh đều có phần khuyến khích ủng hộ cúng dường Pháp.

Trong phần mở đầu phẩm này, vua trời Đế-thích, vua cõi trời Đao Lợi (còn gọi là trời Tam thập tam vì gồm có 33 tầng trời cho 33 thiên tử) đã phát nguyện: “Tuy tôi đã theo Phật nghe được trăm ngàn kinh điển, nhưng chưa từng nghe kinh điển Bất khả tư nghìTự tại thần thông Quyết định Thật tướng này. Như nếu có người nghe được mà tin hiểu thọ trì đọc tụng tu hành theo kinh, chắc chắn sẽ là người đi theo trọn vẹn con đường Giác ngộ, người bước theo dấu chân chư Phật. 

Nếu có những người như thế, tôi và quyến thuộc sẽ cúng dường phụng sự đầy đủ. Dù người đó ở đâu, hoặc nơi nào có kinh này tôi và quyến thuộc sẽ đến đó ủng hộ.”

Đức Phật xác nhận:

- Ta hoan hỷ khen ngợi ông. Kinh này giảng rộng về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của ba đời chư Phật. Cúng dường kinh này tức cúng dường ba đời chư Phật.

Như vậy kinh này, pháp môn mà Duy-ma-cật cùng chư vị đệ tử Thanh văn Bồ-tát đã luận thuyết trong kinh này, những lời vấn đáp, pháp thần thông trong đây, chính là cách thức mà ba đời chư Phật đã tu tậpchứng quả Giải thoát. Chúng sanh nào nghe hiểu và thực hành kinh này, chính là đã tham dự trong hội kinh, đã cùng chư vị Đại sĩ nếm một lần cơm Hương Tích, đã thấy cõi Phật A-súc.

Đức Phật đưa ra so sánh: Phước cúng dường chư Phật với phước được nghe gặp thọ trì tin hiểu tu tập kinh này, thì phước sau hơn hẳn phước trước.

Như chúng ta tặng quà cho muôn ngàn vị tiến sĩ, thì cũng chỉ là làm đẹp thêm cho một người đã có giá trị, như trên gấm thêm hoa. Nếu mở trường lớp để huấn luyện cho mọi người học để thành tiến sĩ, chắc chắn lợi ích hơn. Và biến đổi một chúng sanh còn mê mờ trở thành một người Giác ngộ, qua phương cách tu tập theo kinh điển, giá trị cũng như một bạch diện thư sinh thi đỗ trạng nguyên. Thi đỗ rồi thì mọi hạnh phúc từ đó mà đến, điều quan trọng là phải học hành đúng để thi đỗ.

Giá trị của Pháp cúng dường hơn hẳn mọi cách thức cúng dường vật chất, là như thế. Chúng ta có thể hiểu thêm, khi đọc chuyện Bàng Công chở của cải đổ xuống sông, để cả nhà tu tập đạo lý Vô sanh. Tiền tài dù đem bố thí cúng dường cũng gây vướng mắc tâm lý, đưa người sử dụng cũng còn sự oan gia. Chi bằng đem tự thân thực hành Pháp, đó là của báu tối thượng.

2- Thuật chuyện tiền thân

Phật bảo với Thiên Đế về một cách cúng dường Pháp thời quá khứ. Thời của đức Phật Dược Vương, có một vị Chuyển luân thánh vương tên Bảo Cái, đầy đủ bảy món quốc bảo, có một ngàn người con. Vua đã cúng dường đức Phật Dược Vương đầy đủ vật dụng trải qua năm kiếp, sau đó khuyến khích các vương tử cũng nên cúng dường cho Phật. Giàu sang uy quyền như Chuyển luân thánh vươngcúng dường thì là chuyện quá dễ dàng, như người nhà giàu bớt đi một đồng bạc. Thế nên trong số các vương tử, có một vị tên Nguyệt Cái suy nghĩ: “Có cách cúng dường nào thắng vượt hơn nữa không?” Được thần lực Phật mách bảo đến gặp đức Dược Vương Như Lai hỏi về Pháp cúng dường.

Phật dạy:

- Cúng dường Pháp đó là kinh sâu xa do chư Phật thuyết, tất cả thế gian khó tin khó thọ, vi diệu khó thấy… Đó là dấu ấn của Ấn Tổng Trì, lên tới địa vị Bất thối chuyển… bặt dứt tướng ta, tướng người… Kinh thâu nhiếp tất cả trí tuệ của Hiền Thánh, giảng thuyết chỗ hành đạo của chư Phật… cứu vớt tất cả chúng sanh… chỉ rõ vui Niết-bàn. Nếu nghe những kinh như thế mà tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, đó gọi là Pháp cúng dường.

Phần thứ nhất của Sự cúng dường là nghe, thọ, đọc tụng giảng nói.

Phần thứ hai là cúng dường tối thượng, nghĩa là tu hành theo kinh. Biết một lối trung đạo, biết không có ta có người nhưng vẫn tùy thuận sự vận hành của Nhân duyên - Quả báo.

Theo tứ y:

Y theo nghĩa, không y theo lời nói
Y theo trí, không y theo thức
Y theo kinh liễu nghĩa

không y theo kinh bất liễu nghĩa
Y pháp không y người.

Tu tập quán sát dứt Vô minh cho đến dứt Lão tử. Lìa luôn tướng Dứt và tướng Khởi.

Vương tử Nguyệt Cái nghe Phật dạy về cách cúng dường pháp tối thượng, đã phát nguyện thực hành, làm người giữ gìn chánh pháp.

Vương tử phát lòng tinxuất gia tu tập Thiện pháp, một lòng tinh tấn, chẳng bao lâu được Ngũ thông, đủ đạo Bồ-tát được Tổng trì, biện tài không dứt. Sau khi Phật diệt độ, dùng sức của mình tiếp tục giảng dạy giáo pháp của Phật Dược Vương trong mười kiếp. Tỳ-kheo Nguyệt Cái là một vị giữ gìn Pháp tinh tấn đắc lực, một đời đó hóa độ trăm vạn ức người lập chí bất thối chuyển đối với đạo quả Giác ngộ, mười bốn na-do-tha người phát tâm Thanh văn, Bích chi, vô lượng chúng sanh được sanh lên cõi trời.

Đức Phật Thích-ca kết luận:

- Vương tử Nguyệt Cái chính là thân ta thuở ấy.

Qua câu chuyện, đức Phật cho thấy một hình ảnh cúng dường bằng pháp một cách rõ rệt. Vị Tỳ-kheo tu tập đắc pháp đã hóa độ biết bao nhiêu người, lợi ích lan rộng cả hằng sa thế giới. Cho nên lời kết của phẩm này:

“Thế nên này Thiên Đế! Nên dùng sự cúng dường Pháp để cúng dường chư Phật”.

Xưa nay chúng ta quen hình thức dùng tiền tài vật thực cúng dường. Đó là sự trợ giúp tu tập, kết quả có nhiều phước báo, việc này dễ thực hành.

Cao hơn một chút là đi nghe giảng kinh, rồi đọc tụng, giảng dạy lại cho người, cũng là một hình thức làm cho chánh pháp lưu truyền rộng.

Nhưng thâm ý của chư Phật là muốn chính chúng ta được trở thành như Phật, đó là mục đích đào tạo. Cho nên nếu tự thân mình thực hành Pháp, tự thân mình được an vui giải thoát, đó mới là hoàn thành bản nguyện. Kinh dùng các cấp độ tu tập từ thấp lên cao, ban đầucúng dường gieo duyên, mình vẫn là người đứng ngoài. Cho đến khi đi sâu vào dòng pháp, đượm nhuần mưa pháp, và chính mình trở thành nguồn pháp, thì đó mới là viên mãn. Nếu chỉ chú trọng việc cúng dường vật chất thì có nhiều việc không hay, người đua nhau tạo phước không lo tu, nguồn sáng không có người tiếp nối. Việc thực hành pháp lại khó khăn, đòi hỏi sức kiên trì, nên mọi người thích chọn sự dễ dàng. Như thế không đặt việc thực hành tu tập lên trên, thì chánh pháp lâu dần mai một. Cho nên thâm ý của phẩm này đặt trọng tâm ở chỗ “Dùng Pháp cúng dường” nghĩa là cúng dường bằng chính sự tu tập của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31264)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18564)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25143)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23771)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28936)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20864)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31445)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25548)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29723)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22525)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25721)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23282)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25745)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23724)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40611)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23353)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22450)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22097)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23507)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24313)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41103)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18983)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20481)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27727)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38124)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24489)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22700)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26539)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53585)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23616)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21098)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30841)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21056)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38789)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20545)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20594)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27058)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28083)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37150)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55170)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37979)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14561)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10647)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant