Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tông Chỉ Tạo Luận Khởi Tín

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6928)
2. Tông Chỉ Tạo Luận Khởi Tín

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 2: 
TÔNG CHỈ TẠO LUẬN KHỞI TÍN

 

I. KÍNH LỄ TAM BẢO 

Nguyên Văn
Con cúi đầu đảnh lễ
[Tam Bảo] khắp mười phương:[1] 
Phật là bậc tuệ giác[2] 
Thánh hạnh không ai hơn[3]
Sắc thân luôn vô ngại[4]
Bậc đại bi cứu đời.
Giáo pháp của Thế Tôn[5] 
Bao la như biển lớn
Diễn bày lý vô ngã[6]
Kho công đức vô lượng.
Tăng là đoàn thể[7] quý
Người hành trì đúng cách[8]
Giáo pháp của Như Lai.
Để đạt được chánh giác.[9]
Nay tôi viết luận này[10]
Vì muốn giúp mọi người[11]
Chặt đứt được lưới nghi,
Dẹp tan kiến chấp sai,
Tin đúng về Đại thừa,
Tiếp nối hạt giống Phật.[12]

II. TÔNG CHỈ SÁNG TÁC

Một cách tóm tắt, mục đích sáng tác Khởi Tín Luận bao gồm bốn phần: 

a) Cắt đứt lưới nghi hoặc: về Phật, Pháp, Tăng, nhân quảgiải thoát; hiển thị chánh nghĩa. Đối với hành giả Đại thừa, nghi có hai loại: (1) nghi pháp làm chướng ngại sự phát tâm,(2) nghi môn làm chướng ngại sự hành trì.

b) Phá trừ các kiến chấp sai lầm: các chủ nghĩa và học thuyết ngoại đạo. Tà chấp căn bản gồm: (1) thần ý luận, (2) định mệnh luận, (3) ngẫu nhiên luận. Hoạt dụng của phá kiến chấp là giúp hành giả lìa các vọng khổ.

c) Phát khởi niềm tin về Đại thừa: hướng hành giả sơ tâm trở về con đường giác ngộchuyển hoá lớn. Chức năng hiển chánh rất quan trọng, nhằm đính chính các quan niệm sai lầm về Phật như thần linh, giáo pháp như bùa chú, và mặt khác, xiển dương giáo lý cao siêu của Đại thừa.

d) Làm cho giống Phật không mất: giúp hành giả làm sống dậy tiềm năng Phật tính vốn có.

 III. NHẬN XÉT

2.1. Cả hai bản Lương và Đường đều dịch thể thơ năm chữ, gồm 12 câu. Cách phân bổ của bản Đường cân đối hơn: bốn câu đầu tán thán Phật, hai câu kế tán thán pháp, hai câu 6-7 tán thán Tăng. Bốn câu cuối giới thiệu động cơ và mục đích sáng tác. Bản dịch đời Lương có 3 câu nói về Pháp, nhưng chỉ có một câu nói về Tăng, nên hơi tối nghĩa. Bố cục của các phần còn lại giống với bản đời Đường.

2.2. Khởi Tín Luận bắt đầu bằng bài kệ tán dương Tam Bảo, nền tảng quy ngưỡngthực hành của tất cả hành giả. Đưa ba ngôi báu lên trên mục đích sáng tác Khởi Tín Luận, ngài Mã Minh cho thấy tất cả các luận sư nói riêng và con Phật nói chung cần phải biết trở về cội nguồn tâm linh của mình. Nhờ đó, việc làm của luận chủ không trở thành tán dương bản ngã. Nói cách khác, tất cả việc làm phải được thiết lập trên sự xiển dương Tam Bảo thì mới được gọi là Phật sự.

2.3. Hình ảnh đức Phật được ngài Mã Minh tán dương bao gồm ba phương diện: trí tuệ viên mãn, hạnh đức tròn đầy và sắc thân vô ngại. Với hạnh đức tròn đầy, Phật trở thành tấm gương hành trì tâm linh. Với trí tuệ viên mãn, Phật sẽ hoá độ nhiều người trở về con đường tỉnh thức. Với sắc thân vô ngại, Phật đến và đi tự tại, không hệ thuộc không gian địa lý và thời gian vật lý. Ba đức tính quan trọng này có thể đại diện cho các đức tính cao quý khác của đức Phật, thường được gọi bằng danh xưng là “Như Lai thập hiệu.” 

Mười hiệu cuả Phật là: “Phật (Buddha = bậc giác ngộ) là Như Lai (Tathāgata), bậc A-la-hán (Arhat), bậc Đại Giác Ngộ (Samyaksambuddha), bậc Tuệ Đức Đầy (Vidyācaranasampanna), bậc Khéo Vượt Qua (Sugata = thiện thệ), bậc Hiểu Thế Giới (Lokavid), bậc Điều Phục Đời (Purushadamyasârathi = điều ngự trượng phu), bậc Vĩ Đại Nhất (Anuttara = vô thượng sĩ), bậc Thầy Trời Người (Cāstādevāmanushyānām).” 

2.4. Dharma theo ngài Mã Minh bao gồm tất cả lời Phật dạy. Ngài đã dùng ảnh dụ “đại dương” bao la, không ngằn mé để mô tả bản chấtcông dụng của giáo pháp. Theo đó, thể tướng của giáo pháp vượt khỏi mọi tà thuyết, như biển sâu thẩm, bao hàm vạn vật; như biển bao la, không thiếu đức gì, như biển nhiều báu, không vật nào không hiện. Trọng tâm của giáo pháp nhằm khai thị và xiển dương đạo lý vô ngã. Nói cách khác, “vô ngã” được xem là dấu ấn của triết họctâm học Phật giáo. Bản Lương không nói về “lý vô ngã” (無我句). Bản Đường ghi rõ hơn “vô ngã cú nghĩa pháp” 無我句義法 có nghĩa đen là “pháp của Phật giải thích rõ về học thuyết vô ngã.” Vô ngã cú dịch sát từ chữ Sanskrit là “anātman-vada.” Cần lưu ý “vāda” trong ngữ cảnh này không có nghĩa là “cú” mà có nghĩa là học thuyết, chủ nghĩa. Vô ngã cú có nghĩa là học thuyết vô ngã hay nguyên lý vô ngã. HT. Trí Quang dịch “tức biển pháp tánh, chân như phi ngã” là phối hợp ý tưởng của hai bản dịch đời Lương và đời Đường, nhằm bổ túc những điểm có trong bản này nhưng không có trong bản khác. 

Các nhà sớ giải kinh tạng Đại thừa phân giáo pháp thành bốn loại: a) giáo (thiển = đơn giản, súc tích), b) lý (thâm = sâu sắc, có tác dụng lớn), c) hạnh (phần = chi mục và giai đoạn), d) quả (viên = trọn vẹn, đầy đủ). Chính vì thế mà giáo pháp được quan niệm như kho tàng vô giá hay kho công đức vô lượng của tất cả chúng sinh.

Trong Kinh tạng Pali, đặc biệt là Kinh Trung Bộ, có sáu giá trị quan trọng của lời Phật dạy, vượt lên trên giá trị nhất thời của các tôn giáo, chủ nghĩahọc thuyết

a) Diễn bày khéo léo = giáo pháp được đức Phật thuyết giảng rất tài tình (Pali: svākkhāto bhagavā dhammo), ứng hợp với căn tính của người nghe, giúp họ được lợi lạc

b) Thiết thực hiện tại (Pali: sandiṭṭhiko = realizable here and now). Giáo pháp này có giá trị tức thờihiệu nghiệm nhanh chóng, giúp cho người thực tập đạt được an vui và hạnh phúc, không cần phải đợi sau khi chết.

c) Siêu việt thời gian (Pali: akāliko), giá trị của lời Phật dạy không bị hạn cuộc ba chiều thời gian: quá khứ, hiện tạivị lai. Chủ nghĩa, học thuyết có thể bị thay thế nhưng lời Phật dạy không bao giờ bị sai lệch theo thời đại. Giáo pháp của Phật là chân lý muôn đời.

d) Đến để mà thấy = thấy trước tin sau (Pali: ehipassiko), khác với các tôn giáo là “đến để mà tin.” Phật dạy mọi người hãy tiếp cận với đạo Phật bằng sự quan sát và thực nghiệm. Điều này xác định rằng giáo pháp của Phật thoát khỏi các mặc định đức tin tôn giáo thông thường. Đến với đạo Phật bằng con đường nhận thức thì niềm tin Tam Bảo mới chân chánh và bền bĩ.

e) Có khả năng hướng thượng (Pali: opanayiko): hiệu năng của giáo pháp không nhằm tăng cường tri thức cho người tiếp nhận, mà nhằm cung ứng các năng lực phát triển tâm linh, để đương sự có thể tự mình thắp đuốc lên mà đi trong an vui và giải thoát.

f) Được người có trí chứng hiểu (Pali: paccataṁ veditabbo viññūhi). Đặc tính này xác định rằng đạo Phật không dành chỗ đứng cho các tập tục mê tín dị đoan phát triển. Triết lý thực tiễn của đạo Phật chắc chắn được các bậc thức giả chấp nhận và thấu hiểu. Đặc điểm này còn ngụ ý cho rằng giáo pháp Phật cần phải được tiếp nhận bằng con đường tuệ giác hành trì. Dùng kiến thức thông thường và tín ngưỡng tôn giáo không thể hiểu thấu được đạo lý cao siêu của Phật.

2.5. Tăng bảo được ngài Mã Minh tán thán bao gồm trước nhất là các vị thánh tăng với bốn đôi tám chúng, và kế đến là các vị Bồ-tát tăng. Rõ ràng không phải là hàng phàm tăng qua hình thức “viên đỉnh phương bào.” 

Tăng bảo được ngài Mã Minh tán ngưỡng qua hai phương diện

a) Hành trì một cách trung thành và chân chánh giáo pháp của đức Phật, dĩ nhiên giáo pháp ở đây là giáo pháp đại thừa 

b) Mục đích của sự hành trì đó chính là nhằm đạt được quả vị giác ngộgiải thoát, chứ không hướng về bất kỳ thế lợi nào. 

Trong Kinh tạng Pali, tăng bảo được mô tả qua bốn đức tính sau đây:

Diệu hạnh (Pali: supaṭipanno), tức đức hạnh trang nghiêm, làm tăng giá trị đời sống thanh bần lạc đạo của người xuất gia.

Trực hạnh (Pali: ujupaṭipanno): đức tính chân chất, chánh trực hay tính tình thẳng thắn của người tu, không quanh co, tráo trở, không đầu voi đuôi chuột trong tư cách và đối tác với người xung quanh.

Như lý hạnh (Pali: ñāyapaṭipanno) tức hành động mang chất liệu tuệ giác, khế hợp với chân lý hay hành động khôn ngoan với mục đích và nội dung chuyển hoá phàm tình thành thánh trí.

Chánh hạnh (Pali: sāmīcipaṭipanno): đức hạnh chân chánh hay sự thực hành chính nghĩa như một yêu cầu không thể thiếu để giúp hành giả đạt được thánh quả

 IV. CHÚ THÍCH TỪ NGỮ

Biến tri: cái biết phổ quát và không bị hạn lượng. Trong Phật giáo, biến tri chính là tuệ giác hiểu rõ được bản chất vận hành của mọi sự vật hiện tượng, trên nền tảng của duyên khởitứ đế. Đây là trí tuệ thẩm thấu mọi vật (vô bất viên cực). Thể của tuệ giác vô không hai.

Cứu thế: tức thế gian của chúng sinh, đối tượng cứu độ của Phật.

Quy mạng: “quy” có nghĩa đen là “nương tựa” (y) hay “hướng về” (hướng thú), còn có nghĩa là “trở về nguồn” (hoàn nguyên). Mạng có nghĩa đen là mạng sống (sinh mệnh). Trong Phật giáo, “quy mệnh” là thuật ngữ diễn tả hành động cúi đầu đảnh lễ một cách chí thành, như chứng tỏ lòng quy kính của hành giả đối với Phật, Pháp, Tăng. Đối tượng quy mạng ở đây rất lớn và không hạn lượng, đó là, Phật Pháp Tăngmười phương thế giới. Trong Phật giáo Pali, đối tượng quy mạng chính yếuđức Phật Thích-ca lịch sử, không có niềm tin về chư Phật ở các hành tinh khác ngoài hành tinh con người đang sống.

sắc vô ngại: sắc thân của Phật không bị trở ngại bởi không gianthời gianHoa nghiêm: Phật thân vô khứ diệc vô lai/ Sở hữu quốc độ giai minh kiến (thânPhâtj không đến cũng không đi/ Bất kỳ cõi nào cũng thấy được => thân Phật được ví như mặt trời, nơi nào không bị mây mù che phủ đều thấy được)...Phật thân sung mãn ư pháp giới/ Phổ hiện nhất thiết chúng sinh tiền/ Tuỳ duyên phó cảm ma bất châu/ Nhi thường xử thử bồ-đề toà.

Tối thắng: không có gì hơn, không có ai hơn, siêu việt nhất. Đây là thuật ngữ diễn ca ngợi đức tính vô song của đức Phật. Có thể diễn đạt bằng văn xuôi như sau: Phật bảo dã, tối thắng giả, nghĩa là: “Phật là bậc siêu việt nhất” hay “Phật là bậc không có ai hơn.” Bản sớ giải ghi: “quá tiểu viết thắng, siêu nhân viết tối” có nghĩa là “thắng là vượt lên trên tiểu thừa, còn “tối” có nghĩa là siêu việt khỏi nhân.” Bản sớ giải khẳng định: “siêu nhân” chính là “quả Phật.”

Vô ngại: 1) đại tiểu vô ngại: mỗi căn đều cùng pháp giới nhưng không lẫn lộn với nhau. 2) hỗ dụng vô ngại: các căn tương tác hỗ trợ lẫn nhau. 3) sự lý vô ngại: 4) ứng cơ vô ngại.

[1] HT. Thiện Hoa đã dịch tóm tắt bảy câu tán dương Tam Bảo như sau: “Kính lạy Phật, Pháp và Tăng” (tr. 249)

[2] Gọi đủ là “bậc tuệ giác vô thượng.” Hán gọi là biến tri, viết tắt của biến tri giả (遍知者).

[3] Lương: tối thắng nghiệp (最勝業) tức hạnh đức của Phật siêu tuyệt, không ai trong đời có thể so sánh với ngài được. Hai câu ba và bốn này dịch từ câu “tối thắng nghiệp biến tri” (最勝業遍知). Có lẽ đây là dịch ngữ của từ “Vidyācaranasampanna” mà người Trung Hoa thường gọi là bậc “minh hạnh túc” tức bậc hạnh đức và trí tuệ tròn đầy.

[4] Dịch thoát ý từ câu: “sắc vô ngại tự tại” của bản đời Lương, vốn có nghĩa đen là “Sắc thân của Phật rất tự tạivô ngại.” Trong khi đó, bản đời Đường ghi là “trí vô ngại tự tại” (智無限自在) không đề cập đến sắc thân của Phật, mà nói công dụng của biến triloại trí tuệ tự tại và không bị hạn cuộc.

[5] Lương: “pháp là thể tướng của chính thân Phật.” (及彼身體相/ 法性真如海)
 Khái niệm “pháp thân” trong Đại thừa thường được hiểu với nghĩa đen là “giáo pháp chínhthân thể của Phật.” Khái niệm “chân như” ở đây không có nghĩa “thể tính chân như của mọi sự vật” mà có nghĩa đen “đích thực là.”

[6] Bản Lương không nói về “lý vô ngã” (無我句). Bản Đường ghi rõ hơn “vô ngã cú nghĩa pháp” 無我句義法nghĩa đen là “pháp của Phật giải thích rõ về học thuyết vô ngã.” Vô ngã cú dịch sát từ chữ Sanskrit là “anātman-vada.” Cần lưu ý “vāda” trong ngữ cảnh này không có nghĩa là “cú” mà có nghĩa là học thuyết, chủ nghĩa. Vô ngã cú có nghĩa là học thuyết vô ngã hay nguyên lý vô ngã. HT. Trí Quang dịch “tức biển pháp tánh, chân như phi ngã” là phối hợp ý tưởng của hai bản dịch đời Lương và đời Đường, nhằm bổ túc những điểm có trong bản này nhưng không có trong bản khác.

[7] Dịch thoát nghĩa của chữ đẳng () của Lương.

[8] Lương: như thật tu hành (如實修行).

[9] Dịch từ bản Đường: cần cầu chánh giác giả (勤求正覺者).

[10] Đường: cố ngã tạo thử luận 故我造此論, có nghĩa đen là “vì vậy tôi đã sáng tác ra bộ luận này.”

[11] Hai bản Lương và Đường ghi là “chúng sinh” (眾生). 

[12] Lương: Phật chủng bất đoạn 佛種不斷, có nghĩa đen là làm cho hạt giống Phật không bị mất đi. Đường: thiệu Phật chủng 紹佛種, có nghĩa đentiếp nối hạt giống Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40072)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28275)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28888)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34606)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27794)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33266)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28547)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30058)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51272)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26709)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28603)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24343)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27450)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31914)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27680)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35414)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27431)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31754)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23008)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26639)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28236)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29376)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33273)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21757)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20613)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22242)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23977)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22858)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23196)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21781)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19243)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20137)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32709)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33995)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27760)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23820)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23197)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28148)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19203)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24581)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21416)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23824)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29395)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 31010)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25317)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20120)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19034)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20149)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20030)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19395)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22558)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31127)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant