Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thay Lời Kết

16 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7089)
Thay Lời Kết

NGUYÊN NGUYÊN
Dịch giải
KIM CANG
DIỆU CẢM

THAY LỜI KẾT

  Bạch Thế Tôn,

 Mở đầu, để thay lời giới thiệu bài kinh Kim Cang tôn quý, con có ghi ra một trích đoạn trong Đàn Kinh, trong đó có câu :

 Đương tri thử kinh công đức vô lượng vô biên... 

 ( Đàn Kinh, Phẩm Bát-nhã )

 Công đức đó cụ thể như thế nào ?

 Chính Tổ Huệ Năng đã nói rõ : do một lần tình cờ nghe người ta tụng kinh nầy mà được khai ngộ !

 Huệ Năng nhất văn kinh ngữ tâm tự khai ngộ.

(Huệ Năng vừa nghe lời kinh mà tâm liền bừng sáng.)

 ( Đàn Kinh, Phẩm Tự tự )

 Sự bừng sáng đó càng tỏ rõ, khi tại tu viện Hoàng Mai, Tổ được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn nói kinh cho nghe và đã đại ngộ khi nghe đến câu :

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

( Nên sinh tâm ở chỗ không thể bám víu được.)

 Đại ngộ như vậy, bừng sáng như vậy, Tổ đã thấy gì ?

 Tổ đã thấy cái chân lý cơ bản là :

Nhất thiết vạn pháp bất ly Tự Tánh..

( Vạn pháp nhất nhất đều không rời Tự Tánh.)

 Cái tâm bừng sáng trong trạng thái diệu cảm. Thật xúc động , Tổ bạch cùng Ngũ Tổ , nói lên cái thấy của mình :

 Nào ngờ Tự Tánh vốn tự nhiên thanh tịnh ;

 Nào ngờ Tự Tánh vốn không sinh diệt ;

 Nào ngờ Tự Tánh vốn tự nhiên đầy đủ ;

 Nào ngờ Tự Tánh không hề dao động ;

 Nào ngờ Tự Tánh có khả năng sinh ra vạn pháp.

 ( Đàn Kinh, Phẩm Tự tự )

 Tổ được khai ngộ«thấy Tánh » như vậy. Mà khai ngộ cho Tổ là do công đức của câu kinh :

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm !

 Bạch Thế Tôn,

 Con nay hiểu rằng qua câu kinh đó Thế Tôn đã dạy về tâm pháp không chấp ».

 Con nay cũng biết ra rằng kẻ vẫn thường thường bám chấp đó là một dạng của tâm. Có người gọi đó là cái “tâm phân biệt”.

 “Tâm phân biệt” là gì? Đó là thứ tâm mà « thế đế », hay « tục đế » từ đó mà sinh ra.

 . “Tâm phân biệt” có tính năng cơ bản là phân biệt hai bên, từ đó mà hình thành những cặp đối lập như là tốt/xấu, đúng/sai, thiện/ác, cao/thấp, sang/hèn, giàu/nghèo,…

 Nó chấp sự phân biệt đó, để rồi “thủ xả”_ tức là bám lấy cái được xem là tốt, xua đuổi cái được xem là xấu.

 . “Tâm phân biệt” cũng tạo ra những công cụ cho sự vận động của nó. Đó là những “khái niệm”. Rồi liên kết những khái niệm với nhau thì gọi là “tư tưởng”.

 Những “khái niệm”, cho dù có phần phản ánh sự vật, nhưng chúng đồng thời cũng giống như những lăng kính làm biến dạng “sự vật-như-chúng-là”. Và “tư tưởng” thì cũng thế.

 Bạch Thế Tôn,

 Trong dân gian vốn có thành ngữ: “Mua trâu vẽ bóng”. Ấy là căn cứ vào hình vẽ của con trâu mà mua nó. Không trực tiếp xem con trâu đó bằng xương bằng thịt. Tức là không tự mình đến bên con trâu để thấy con trâu như- nó-là!  Tiếp cận mọi vật /việc qua khái niệm là một kiểu “mua trâu vẽ bóng” vậy!

 Trong đoạn 31, Thế Tôn đã đã cảnh giác về cái bệnh chung của loài người có nguồn gốc từ vô thủy đó. Gọi đó là “sinh pháp tướng”:

 … Ư nhất thiết pháp ưng như thị tri,như thị kiến,như thị tín giải,bất sinh pháp tướng.

(… Đối với mọi vật / việc, nên bằng cách đó mà biết, mà thấy, mà tin, chớ sinh pháp tướng.)

 ( Kim Cang, Đoạn 31 )

 “Chớ sinh pháp tướng” có nghĩa là không để cho những khái niệm che lấp sự vật như-chúng-là vậy.

 Những khái niệm đó làm cho sự vật bị biến hình vì những “ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến”. Tức là những thiên kiến vậy!

 Với sự vật như-chúng-là thì “nhục nhãn” không thấy được; cái nó thấy thì là thấy qua lăng kính biến dạng của những khái niệm .

 . “ Tâm phân biệt” cũng tạo ra thứ khuôn khổ cho sự vận động của nó. Ấy là “thời gian”, gồm quá khứ, hiện tại, vị lai.

 Có thể thấy rất rõ: quá khứ là cái đã qua rồi; vị lai là cái chưa thực sự xảy ra. Cả hai đều là hư vọng.

 Hiện tại trong thế giới tâm thì cũng là hư vọng. bởi vì đó là thứ hiện tại đầy ắp hoài niệm về quá khứ và là thứ hiện tại chồm về phía trước, với biết bao là dự phóng về tương lai!

 Nói tóm lại thì “thời gian”  là hư vọng, bởi vì đó là sản phẩm của cái “tâm phân biệt”!

 Bạch Thế Tôn,

 Thật may mắn làm sao, ngoài cái tâm phân biệt kia chúng con còn có “tâm thiền định”. Đó là cái tâm từ đó chúng con có thứ mà Bồ Tát Long Thọ gọi là “chân đế”, tức là có thứ tri kiến về “sự vật như-chúng-là.” Tâm nầy vốn ẩn vi, mà chúng con đã nhờ những bậc giác ngộ chỉ ra.

 Con nay biết rằng “tâm thiền định” không vận động trong khuôn khổ thời gian. Nếu tạm nói rằng nó vận động trong hiện tại thì đó là thứ hiện tại mỏng tanh! Mỏng như một sát-na. Đó là thứ hiện tại không có thời gian tính! Xin được gọi đó là cái “hiện tiền”.Vậy là “tâm thiền định” thức động trong “hiện tiền”.

 Với “tâm thiền định” thì không có thời gian, do đó mà không có sinh cùng diệt. Cũng là “vô sở trụ”, tức là không có chỗ để bám víu.

 “Tâm thiền định” cũng không vận dụng các khái niệm. Vạn pháp thị hiện như-chúng-là, tức là thông với Tự Tánh. Như Lục Tổ Huệ Năng đã thấy:

Nhất thiết vạn pháp bất ly Tự Tánh.

 Một cách cụ thể thì với “tâm thiền định” Thiền giả cũng nghe. Như nghe tiếng chim kêu. Tuy vậy tiếng chim nầy không giống với tiếng chim vẫn thường nghe. Tiếng chim nầy là một thị hiện trong sát-na hiện tiền.

 Và Thiền giả cũng thấy. Như thấy trăng lên. Nhưng đây cũng không phải là trăng vẫn thường thấy. Trăng đây là sự thị hiện trong sát-na hiện tiền của Tự Tánh huyền nhiệm. Như một Thiền giả nọ đã thấy và đã viết nên một câu đẹp như gió mát, đẹp như trăng thanh:

Hốt phùng thiên đễ nguyệt.

( Chợt thấy trăng lên ở chân trời.)

 Ấy là thấy Tánh đó chăng? Hoặc là thấy Tánh tướng không-hai đó chăng?

 Nguyện cầu quý hành giả có duyên may được nghe tiếng chim kêu như vậy, hoặc thấy trăng lên như vậy!

 Hoặc là thấy trúc xanh theo cùng cách như vậy, hoặc là thấy hoa vàng theo cùng cách như vậy!

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18370)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16699)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13283)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12755)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13606)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11775)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14304)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17808)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22678)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13485)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15581)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16124)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11402)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15729)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13186)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21985)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16200)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19171)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24875)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17716)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17117)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18635)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19072)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18878)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14416)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23132)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28579)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15215)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13721)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16493)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143638)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16370)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17439)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47412)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39139)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15809)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23171)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16765)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14305)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13895)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17245)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14369)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16928)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27995)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50206)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38509)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28552)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52200)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35841)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32888)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50802)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63719)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49713)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57026)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47538)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39412)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36585)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32228)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant