Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ Lục 2: Từ Vựng

16 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6532)
Phụ Lục  2:  Từ Vựng

NGUYÊN NGUYÊN
Dịch giải
KIM CANG

DIỆU CẢM

Phụ lục 2

TỪ VỰNG

 

A

 

A-la-hán : Quả vị cao nhất của bậc giác ngộ trong Phật giáo tiểu thừa. Đó là người đã sạch phiền nãoô nhiễm, không tạo nhân sinh tử.

 A-la-hán đạt « hữu vi niết bàn » - có nghĩa là còn mang quả sinh tử phát sinh từ nhân trong trong kiếp trước.

A-tăng-kỳ : Vô số. Thường dùng trong thành ngữ “a-tăng-kỳ kiếp”.

An trụ tâm : Đây là một vấn đề ngài Tu Bồ Đề hỏi Thế Tôn giữa Pháp hội: Làm thế nào để an trụ tâm?

 Lời giải đáp có thể nói là thu gọn trong câu:

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

(Nên sinh tâm ở nơi không chỗ trụ)

 Ấy là nói rằng tâm không được trụ ở tướng vậy.

 Về phương diện thực hành thiền định thì “an trụ tâm” có nghĩa là định tâm lăng xăng ở sát-na hiện tiền.

 Đối với bậc Thiền giả “thấy Tánh” thì “an trụ tâm” cốt ở “thường thường thấy Tánh”.

 

B

 

Ba thân : Tức là ba thân Phật, gồm: hóa thân, báo thân Pháp thân.

 . Phật hiển hiện trong sắc thân, “bằng xương bằng thịt”, trong những điều kiện không gian, thời gianvăn hóa xã hội nhất định thì gọi là “hóa thân Phật”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong nhân thân thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàmhóa thân Phật.

 . Những đức thánh thiện, đặc biệttừ bitrí huệ thị hiện ra ở dung quang, ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi, như rạng ngời ánh hào quang và lan tỏa sự bình an đến mọi người chung quanh. Hiện thể đó là “báo thân Phật”.

 . “Pháp thân Phật” có khi cũng được gọi là “Không”. Chữ “Không” nầy có phần có hàm ý nhận thức luận: ấy là chỉ có thể diễn đạt bằng cách phủ định. Phủ định bằng những từ kép có chữ “bất”, chẳng hạn như: “bất khả ngôn’, “bất khả thuyết”, “bất khả tư nghị” ( không thể nói, không thể diễn giải, không thể nghĩ bàn)

 Cách phủ định cũng được diễn đạt bằng những từ kép với chữ “vô”, chẳng hạn như “vô biên”, vô hạn”

Pháp thân Phật là vậy ! Là vô biên , vô hạn, là mênh mông! Pháp thân Phật là vậy ! Là cái chiều kích mênh mông, vô hạn của vũ trụ. Cũng là cái chiều kích mênh mông của tâm.

Cũng chính vì thế mà có thể thấy rằng cái chiều kích đó cũng là chiều kích của tự do, của giải thoát. Chiều kích vô hạn có tên là « Không » đó cũng có tên là « Tánh Không », hay đơn giản« Tánh ». Cửa ngỏ của tự dogiải thoát ở ngay chỗ thấy cái « Không » đó – thường gọi là « thấy Tánh »

*

 Khái niệm « ba thân Phật” được diễn giải như trên có thể khơi lên ngộ nhận. Đặc biệtngộ nhận rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ là một “hóa thân”. Thực ra thì phải thấy rằng nơi Đức Phật có đủ cả ba thân Phật.

 - “Hóa thân”, đó là nhân thân của thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm, thuở ấy ai cũng có thể thấy, bằng “mắt thịt”.

 - “Báo thân”, đó là chỗ từ đó tỏa ra ánh sáng của từ bitrí huệ, hoặc là ánh sáng của tứ vô lượng tâmtừ, bi, hỉ, xả. Cũng có thể nói đó là chỗ người đương thời thấy hiện ra trong “ba mươi hai tướng tốt” “tám mươi vẻ đẹp”.

 - “Pháp thân”, đó là cái chiều kích mênh mông và ẩn nhiệm nơi Đức Phật, không thể dùng lời mà nói, không thể diễn giải và không thể nghĩ bàn. Dù vậy, chỗ ẩn nhiệm đó cũng hiện ra trong “Pháp” mà Đức Phật “thuyết”. “Pháp” ấy luôn được diễn giải bằng chữ “không”. Chẳng hạn như trong những câu:

 - Cái gọi là Phật Pháp đó không phải là Phật Pháp thật.

 - Bởi vì Như Lai nói: thân tướng tức không phải là thân tướng.

 Vậy có thể thấy rằng Phật Pháp vốn cùng Pháp thân không khác. Đều trỏ về cái chiều kích mênh mông, vô hạn của vũ trụ và cũng là của tâm.

Bát-nhã : tức là trí huệ. Đó là trí ở bậc cao, có khả năng « thấy Tánh » một cách trực tiếp, tức thì.

Bát-nhã ba-la-mật : cũng có nghĩa là trí bát-nhã, nhưng ở đây chỉ về cái dụng của trí bát-nhã là « độ » cho hành giả sang đến « bờ bên kia », tức là đến chỗ « thấy Tánh ».

Bát-nhã hạnh : tức là hạnh của hàng Bồ Tát. TổHuệ Năng từng nói rất rõ :

 « Nhất thiết xứ sở, nhất thiết thời trung, niệm niệm bất ngu, thường hành trí huệ, tức thị bát-nhã hạnh. »

 ( Bất kỳ là ở đâu, bất kỳ là lúc nào, từng giây từng phút không mê, thường thườngtrí huệ, ấy là bát-nhã hạnh,)

Bồ Tát : chỉ về thánh vị của bậc có tu chứng, có đủ trí huệtừ bi. Đặc điểm cơ bản của Bồ Tát là có hạnh nguyện « độ » tất cả chúng sinh mà không có chút ngã chấp – tức là « độ tất cả chúng sinh mà không thấy có chúng sinh nào được độ ». Nói cách khác là Bồ Tát không thấy có « năng độ » và « sở độ ».

 

C

 

Chân như : chỉ về thể Tánh đầu nguồn của vạn pháp. Chân như là « thể »,với tiềm năng vô hạn. Chân như là cội nguồn bất tuyệt của vạn pháp, là cái Một không tên, vô hạn, không thể diễn giải, không thể nghĩ bàn.

« Chân như » đồng nghĩa với « Pháp thân ».

 

Chấp : Đây là một khái niệm có vẻ đơn giản nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Ấy là bệnh của cái tâm khư khư bám chặt lấy cái gì đó xem như là chắc, là thực. Có hai dạng chấp : « chấp có » và « chấp không ».

 . «Chấp có » là khư khư khẳng định, khư khư bám lấy một vật/việc, hoặc một khái niệm nào đó. Thực chất của « chấp có » là « chấp tướng ». Tuy vậy, vì mọi tướng đều là hư vọng cho nên mọi « chấp có » đều là mê ! ngay cả « chấp kinh » !

  . «Chấp không » là phủ định tất cả! Chẳng hạn như lời một Thiền sinh nọ : « Tâm, Phật, loài hữu tình rốt ráo đều không có. Bản tánh của mọi hiện tượng là không... . »

 Hàng Bồ Tát thì vượt lên trên mọi khẳng định và phủ định., thấy rõ cái lý không phải có, cũng không phải không.

 

H

 

Hàng phục tâm : ấy là đưa cái tâm lăng xăng thường ngày trở về Bản Tâm thanh tịnh.

 Chẳng hạn như khi đại sư Huệ Năng bảo thượng tọa Huệ Minh :

 « Bình tức chư duyên, vật sinh nhất niệm... bất tư thiện, bất tư ác. »

 ( Ngoài không để ngoại vật lôi cuốn, trong không khởi ý gì...không nghĩ điều thiện ác.)

 Ấy là đại sư Huệ Năng dạy thượng tọa Huệ Minh hàng phục tâm vậy.

 Nói chung, việc thực hành thiền định là việc hàng phục tâm.

Hữu vi : chỉ về thế giới hiện tượngtrong đó vạn vật tương tác với nhau trong tiến trình thành, trụ, hoại, không. Nói cách khác thì đó là thế giới vô thường.

 « Hữu vi pháp » là những vật/việc trong thế giới đó. Cũng tức là « hiện tượng ». Bài kệ Lục Như, ở đoạn cuối kinh Kim Cang viết về « hữu vi pháp » :

Nhất thiết hữu vi pháp

 Như mộng huyễn báo ảnh,

Như lộ, diệc như điện,

 Ưng tác như thị quán.

 Ý chính của bài kệ là : thế giới hữu vi là nơi không có chỗ bám ( vô sở trụ). Người tỉnh ngộ thấy sự vật như-chúng-là, tức là thấy vạn sự vạn không có tự tính và luôn luôn biến chuyển trong dòng chảy sinh động, miên man bất tuyệt. Chúng giống như nước chảy, giống như mây trôi, có thể sử dụng chúng, có thể hân thưởng chúng ở ngay thời điểm chúng trình hiện ; chớ « chấp » chúng, chớ khởi ý muốn chúng diễn ra như ý mình.

 

L

Lục căn : Sáu căn, gồm : nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý _ tức là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Năm « căn » trước có thể xem như là năm cửa ở để tiếp xúc với ngoại giới. « Ý căn » thì có thể xem là một chức năng đặc biệt chuyển đổi những dữ kiện giác quan thành những tri giác.

Lục trần : Sáu trần là sáu đối tượng của sáu căn, gồm : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp _  tức là hình ảnh và màu sắc, âm thanh, mùi hương mà mũi ngữi thấy, vị mà lưỡi nếm thấy, cảm giác mà da và thân có thể cảm nhận được ; « pháp » chỉ về sự/vật như được cái trí tiếp nhận .  

Lục thức : Sáu thức  là sáu cách thấy biết khi sáu căn tiếp xúc với sáu trầnGồm có : nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức  ý thức.

 

N

 

Như Lai :

 « Như » tức là « Chân như », đồng nghĩa với « Pháp thân », hay « Thể tánh », thuộc « thể » vì thế mà « ẩn ».

 « Lai » có nghĩa là đến, chỉ về « dụng », do đó mà « hiện ».

 Vậy « Như Lai » là hiện thể của Chân như, dưới dạng một bậc thánh nhân phản ánh trung thực thể tánh Chân như.

 Ở Như Lai ba thân Phật đều viên mãn. Hóa thân tương đối dễ nhận thấy ; báo thân rất tinh tế ; Pháp thân thật huyền vi, ở bên trên tri kiến nhị biên của thế tục, cũng do đó mà không thể nói năng, diễn giải hay nghĩ bàn.

 

 

Niết bàn :

 Về « niết bàn » ta có thành ngữ « nhập niết bàn ». Thành ngữ đó có hàm ý niết bàn là một nơi, một cõi nào đó, có vị trí không gian.

 Thực ra niết bàn thuộc cảnh giới của tâm. Đó là « Bản Tâm thanh tịnh ».

 « Bản Tâm thanh tịnh » có hai đặc điểm cơ bản : tâm lăng xăng lặng xuống ; tâm tham chấp tan rã. Cũng do đó mà « thân tâm thường an lạc ».

 Chứng quả niết bànthực chứng « Bản Tâm/Bản Tánh thanh tịnh » đó. Cũng do đó mà bóng dáng của niết bàn có thể cảm nghiệm được trong khi thực hành thiền định sâu lắng. Khi đó thì cái « tâm viên ý mã » lặng xuống, cái tâm tham chấp tan rã, cái tâm an lạc khai mở. Cái dụng của tâm thiền định là như vậy. Trong thiền định ta chứng nghiệm cái « hiện tiền » ; thiền định không nhắm về một mục đích nào khác.

 Về niết bàn thường có sự phân biệt « hữu dư niết bàn » và « vô dư niết bàn ». Ở hữu dư niết bàn thì không còn sự tạo nghiệp trong hiện tại nhưng còn mang tích nghiệp quá khứ và nhận nghiệp quả đó. Ở vô dư niết bàn thì không còn có tạo nghiệp cũng không còn mang tích nghiệp.

 

P

 

Pháp : Chữ « Pháp » có nhiều cung bậc ý nghĩa :

(1) « Pháp » chỉ về đại luật vận hành của Nhất thể vũ trụ. Luật nầy huyền nhiệm, ẩn vi. Con người thuận theo thì được hanh thông, an lạc; ngược lại thì gặp lận đận, muộn phiền. Người xưa có câu : « Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong ». Chữ « thiên » nầy chính là « Pháp » vậy. Từ nghĩa nầy của « Pháp », ta có từ kép « Pháp giới »

(2) Từ nghĩa gốc trên, « Pháp » có nghĩa là « Phật Pháp », chỉ về những lời dạy của Đức Phật, hướng dẫn con người sống an lạc. Từ nghĩa nầy của « Pháp » ta có những từ kép như là : Pháp chiến, Pháp luân, Pháp môn, Pháp nhãn, Pháp tự,... .

(3) « Pháp » chỉ về các vật/việc xảy ra trong đời. Tất cả đều là những dạng của đại luật vũ trụ và qua đó người ta có thể thấy những bài học về Phật Pháp. Do đó mà có câu : «Tất cả các pháp đều là Phật Pháp

 Trong « Diệu cảm », để dễ phân biệt, tạm có quy ước : nghĩa (1) và (2) được viết là « Pháp » ; nghĩa (3) được viết là « pháp ».

 

T

 

Tam thiên đại thiên thế giới: Chỉ về cấu trúc vĩ đại của vũ trụ theo vũ trụ quan của Ấn Độ giáoPhật giáo.

 

 

Tánh :

 (1)Trong ý nghĩa cơ bản nhất, “Tánh”, cũng gọi là “Thể Tánh”, hoặc“Tánh Không”, hay đơn giản“Không”, chỉ về nguồn năng lượng đầu nguồn, ẩn vi, huyền nhiệm, cội nguồn của vạn sự, vạn vật, đồng thời tồn tại xuyên suốt trong các tiến trình biến hiện của vạn sự, vạn vật. Vạn sự, vạn vật biến hiện dưới vô cùng hình danh và sắc tướng được gọi chung là “tướng”. “Tướng” thông với “Tánh” theo cách ngọn ngành thông với nguồn cội, hiện thông với ẩn, hiển thông với vi. Vì thông như vậy nên cũng nói là Tánh tướng không-hai. Tánh vốn cũng có tên là Không; tướng cũng có tên là sắc. Gọi tên như vậy, Tâm Kinh nói về quan hệ “sắc-không”:

Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc;

Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc.

(Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc;

Sắc tức là Không, Không tức là sắc.)

 (2) Tánh cũng có tên là « Bản Tánh », là Phật Tánh » là « Bản Tâm », hoặc đơn giản là « Tâm ». Bản Tánh, hay Bản Tâm đó vốn tự nhiên thanh tịnh. Yêu cầu đặt ra cho hành giả« thấy Tánh », tức là thấy cái « Bản Tánh thanh tịnh » đó. Tâm pháp cốt là thực hành thiền địnhtác dụng là làm tĩnh lặng cái tâm lăng xăng và nhiều tham chấp.

Thế Tôn : Danh hiệu tôn vinh Đức Phật, có nghĩa là đấng được thế gian tôn kính.

Tịnh độ : Cũng đọc là « Tịnh thổ », có nghĩa là nơi/đất thanh tịnh. Theo Phật giáo đại thừa thì mỗi vị Phật có một tịnh độ. Tịnh độ được nói đến nhiều nhất là « Tây Phương Tịnh Độ », hay « Tịnh Độ Di Đà », của Phật A Di Đà.

 Thực ra tịnh độ không phải là một nơi/cõi nào đó. Đó là Bản Tâm thanh tịnh. Do đó muốn « đến » Tây Phương Tịnh Độ thì chỉ cần niệm « lục tự Di Đà » _ « Nam Mô A Di Đà Phật »! Điều quan trọng là niệm với cái tâm thanh tịnh, buông xả mọi tư tưởng, mọi tham chấp. « Thấy » cái tâm thanh tịnh đó là « đến » Tây Phương Tịnh Độ vậy.

 Cơ bản thì là vậy. Thế nhưng trong thực tế tôn giáo thì cũng có điều dị nghị. Từ một truyền thống lâu đời, nhiều tín đồ thực hành pháp môn niệm Phật , tức là tín đồ Tịnh Độ tông, tin rằng mục đích của việc niệm Phật là để được « vãng sinh Tịnh Độ » sau khi lâm chung.

Tu-bồ-đề : Ấy là vị đại đệ tử hàng đầu trong mười vị đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Cũng có danh hiệuHuệ Mạng,Thiện Hiện, hoặc Không Sinh. Ngài Tu-bồ-đề nổi tiếng thông tuệ về Tánh Không.

Tì kheo : danh gọi nam tu sĩ trong phái khất thực.

Tứ cú kệ : bài kệ có bốn câu. Trong kinh Kim Cang có hai bài tứ cú kệ ở các đoạn 25 và 32.

 

V

 

Vô thượng chánh đẳng chánh giác : Chỉ về trí huệ vô thượng của Phật.

Vô vi : tương phản với « hữu vi », « vô vi » chỉ về lĩnh vực không chịu sự chi phối của lý duyên sinh, không ở trong tiến trình sinh diệt, tức là chỉ về cái không sinh diệt.

 Kinh Kim Cang, đoạn 7, có từ « vô vi Pháp ». « Vô vi Pháp » có hai nghĩa thông nhau, xuất phát từ hai nghĩa của chữ »Pháp ».

  . « Vô vi Pháp » có nghĩa là thể và dụng huyền vi không thể nghĩ bàn của vũ trụ.

  . « Vô vi Pháp » cũng có nghĩa là tri kiến uyên thâm về vũ trụ, vốn không thể diễn tả thành lời, mà Đức Phật tạm dùng lời làm phương tiện để truyền đạt đến các đệ tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11090)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16466)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11926)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12103)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10240)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13978)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10244)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13712)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16276)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11979)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12989)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12691)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11014)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10955)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11907)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12775)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11075)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12631)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11342)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12530)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10859)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10529)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11203)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12118)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12011)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12421)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12564)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13178)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16586)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11962)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12625)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13633)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12188)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant