Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ Lục 2: Từ Vựng

16 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6564)
Phụ Lục  2:  Từ Vựng

NGUYÊN NGUYÊN
Dịch giải
KIM CANG

DIỆU CẢM

Phụ lục 2

TỪ VỰNG

 

A

 

A-la-hán : Quả vị cao nhất của bậc giác ngộ trong Phật giáo tiểu thừa. Đó là người đã sạch phiền nãoô nhiễm, không tạo nhân sinh tử.

 A-la-hán đạt « hữu vi niết bàn » - có nghĩa là còn mang quả sinh tử phát sinh từ nhân trong trong kiếp trước.

A-tăng-kỳ : Vô số. Thường dùng trong thành ngữ “a-tăng-kỳ kiếp”.

An trụ tâm : Đây là một vấn đề ngài Tu Bồ Đề hỏi Thế Tôn giữa Pháp hội: Làm thế nào để an trụ tâm?

 Lời giải đáp có thể nói là thu gọn trong câu:

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

(Nên sinh tâm ở nơi không chỗ trụ)

 Ấy là nói rằng tâm không được trụ ở tướng vậy.

 Về phương diện thực hành thiền định thì “an trụ tâm” có nghĩa là định tâm lăng xăng ở sát-na hiện tiền.

 Đối với bậc Thiền giả “thấy Tánh” thì “an trụ tâm” cốt ở “thường thường thấy Tánh”.

 

B

 

Ba thân : Tức là ba thân Phật, gồm: hóa thân, báo thân Pháp thân.

 . Phật hiển hiện trong sắc thân, “bằng xương bằng thịt”, trong những điều kiện không gian, thời gianvăn hóa xã hội nhất định thì gọi là “hóa thân Phật”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong nhân thân thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàmhóa thân Phật.

 . Những đức thánh thiện, đặc biệttừ bitrí huệ thị hiện ra ở dung quang, ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi, như rạng ngời ánh hào quang và lan tỏa sự bình an đến mọi người chung quanh. Hiện thể đó là “báo thân Phật”.

 . “Pháp thân Phật” có khi cũng được gọi là “Không”. Chữ “Không” nầy có phần có hàm ý nhận thức luận: ấy là chỉ có thể diễn đạt bằng cách phủ định. Phủ định bằng những từ kép có chữ “bất”, chẳng hạn như: “bất khả ngôn’, “bất khả thuyết”, “bất khả tư nghị” ( không thể nói, không thể diễn giải, không thể nghĩ bàn)

 Cách phủ định cũng được diễn đạt bằng những từ kép với chữ “vô”, chẳng hạn như “vô biên”, vô hạn”

Pháp thân Phật là vậy ! Là vô biên , vô hạn, là mênh mông! Pháp thân Phật là vậy ! Là cái chiều kích mênh mông, vô hạn của vũ trụ. Cũng là cái chiều kích mênh mông của tâm.

Cũng chính vì thế mà có thể thấy rằng cái chiều kích đó cũng là chiều kích của tự do, của giải thoát. Chiều kích vô hạn có tên là « Không » đó cũng có tên là « Tánh Không », hay đơn giản« Tánh ». Cửa ngỏ của tự dogiải thoát ở ngay chỗ thấy cái « Không » đó – thường gọi là « thấy Tánh »

*

 Khái niệm « ba thân Phật” được diễn giải như trên có thể khơi lên ngộ nhận. Đặc biệtngộ nhận rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ là một “hóa thân”. Thực ra thì phải thấy rằng nơi Đức Phật có đủ cả ba thân Phật.

 - “Hóa thân”, đó là nhân thân của thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm, thuở ấy ai cũng có thể thấy, bằng “mắt thịt”.

 - “Báo thân”, đó là chỗ từ đó tỏa ra ánh sáng của từ bitrí huệ, hoặc là ánh sáng của tứ vô lượng tâmtừ, bi, hỉ, xả. Cũng có thể nói đó là chỗ người đương thời thấy hiện ra trong “ba mươi hai tướng tốt” “tám mươi vẻ đẹp”.

 - “Pháp thân”, đó là cái chiều kích mênh mông và ẩn nhiệm nơi Đức Phật, không thể dùng lời mà nói, không thể diễn giải và không thể nghĩ bàn. Dù vậy, chỗ ẩn nhiệm đó cũng hiện ra trong “Pháp” mà Đức Phật “thuyết”. “Pháp” ấy luôn được diễn giải bằng chữ “không”. Chẳng hạn như trong những câu:

 - Cái gọi là Phật Pháp đó không phải là Phật Pháp thật.

 - Bởi vì Như Lai nói: thân tướng tức không phải là thân tướng.

 Vậy có thể thấy rằng Phật Pháp vốn cùng Pháp thân không khác. Đều trỏ về cái chiều kích mênh mông, vô hạn của vũ trụ và cũng là của tâm.

Bát-nhã : tức là trí huệ. Đó là trí ở bậc cao, có khả năng « thấy Tánh » một cách trực tiếp, tức thì.

Bát-nhã ba-la-mật : cũng có nghĩa là trí bát-nhã, nhưng ở đây chỉ về cái dụng của trí bát-nhã là « độ » cho hành giả sang đến « bờ bên kia », tức là đến chỗ « thấy Tánh ».

Bát-nhã hạnh : tức là hạnh của hàng Bồ Tát. TổHuệ Năng từng nói rất rõ :

 « Nhất thiết xứ sở, nhất thiết thời trung, niệm niệm bất ngu, thường hành trí huệ, tức thị bát-nhã hạnh. »

 ( Bất kỳ là ở đâu, bất kỳ là lúc nào, từng giây từng phút không mê, thường thườngtrí huệ, ấy là bát-nhã hạnh,)

Bồ Tát : chỉ về thánh vị của bậc có tu chứng, có đủ trí huệtừ bi. Đặc điểm cơ bản của Bồ Tát là có hạnh nguyện « độ » tất cả chúng sinh mà không có chút ngã chấp – tức là « độ tất cả chúng sinh mà không thấy có chúng sinh nào được độ ». Nói cách khác là Bồ Tát không thấy có « năng độ » và « sở độ ».

 

C

 

Chân như : chỉ về thể Tánh đầu nguồn của vạn pháp. Chân như là « thể »,với tiềm năng vô hạn. Chân như là cội nguồn bất tuyệt của vạn pháp, là cái Một không tên, vô hạn, không thể diễn giải, không thể nghĩ bàn.

« Chân như » đồng nghĩa với « Pháp thân ».

 

Chấp : Đây là một khái niệm có vẻ đơn giản nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Ấy là bệnh của cái tâm khư khư bám chặt lấy cái gì đó xem như là chắc, là thực. Có hai dạng chấp : « chấp có » và « chấp không ».

 . «Chấp có » là khư khư khẳng định, khư khư bám lấy một vật/việc, hoặc một khái niệm nào đó. Thực chất của « chấp có » là « chấp tướng ». Tuy vậy, vì mọi tướng đều là hư vọng cho nên mọi « chấp có » đều là mê ! ngay cả « chấp kinh » !

  . «Chấp không » là phủ định tất cả! Chẳng hạn như lời một Thiền sinh nọ : « Tâm, Phật, loài hữu tình rốt ráo đều không có. Bản tánh của mọi hiện tượng là không... . »

 Hàng Bồ Tát thì vượt lên trên mọi khẳng định và phủ định., thấy rõ cái lý không phải có, cũng không phải không.

 

H

 

Hàng phục tâm : ấy là đưa cái tâm lăng xăng thường ngày trở về Bản Tâm thanh tịnh.

 Chẳng hạn như khi đại sư Huệ Năng bảo thượng tọa Huệ Minh :

 « Bình tức chư duyên, vật sinh nhất niệm... bất tư thiện, bất tư ác. »

 ( Ngoài không để ngoại vật lôi cuốn, trong không khởi ý gì...không nghĩ điều thiện ác.)

 Ấy là đại sư Huệ Năng dạy thượng tọa Huệ Minh hàng phục tâm vậy.

 Nói chung, việc thực hành thiền định là việc hàng phục tâm.

Hữu vi : chỉ về thế giới hiện tượngtrong đó vạn vật tương tác với nhau trong tiến trình thành, trụ, hoại, không. Nói cách khác thì đó là thế giới vô thường.

 « Hữu vi pháp » là những vật/việc trong thế giới đó. Cũng tức là « hiện tượng ». Bài kệ Lục Như, ở đoạn cuối kinh Kim Cang viết về « hữu vi pháp » :

Nhất thiết hữu vi pháp

 Như mộng huyễn báo ảnh,

Như lộ, diệc như điện,

 Ưng tác như thị quán.

 Ý chính của bài kệ là : thế giới hữu vi là nơi không có chỗ bám ( vô sở trụ). Người tỉnh ngộ thấy sự vật như-chúng-là, tức là thấy vạn sự vạn không có tự tính và luôn luôn biến chuyển trong dòng chảy sinh động, miên man bất tuyệt. Chúng giống như nước chảy, giống như mây trôi, có thể sử dụng chúng, có thể hân thưởng chúng ở ngay thời điểm chúng trình hiện ; chớ « chấp » chúng, chớ khởi ý muốn chúng diễn ra như ý mình.

 

L

Lục căn : Sáu căn, gồm : nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý _ tức là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Năm « căn » trước có thể xem như là năm cửa ở để tiếp xúc với ngoại giới. « Ý căn » thì có thể xem là một chức năng đặc biệt chuyển đổi những dữ kiện giác quan thành những tri giác.

Lục trần : Sáu trần là sáu đối tượng của sáu căn, gồm : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp _  tức là hình ảnh và màu sắc, âm thanh, mùi hương mà mũi ngữi thấy, vị mà lưỡi nếm thấy, cảm giác mà da và thân có thể cảm nhận được ; « pháp » chỉ về sự/vật như được cái trí tiếp nhận .  

Lục thức : Sáu thức  là sáu cách thấy biết khi sáu căn tiếp xúc với sáu trầnGồm có : nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức  ý thức.

 

N

 

Như Lai :

 « Như » tức là « Chân như », đồng nghĩa với « Pháp thân », hay « Thể tánh », thuộc « thể » vì thế mà « ẩn ».

 « Lai » có nghĩa là đến, chỉ về « dụng », do đó mà « hiện ».

 Vậy « Như Lai » là hiện thể của Chân như, dưới dạng một bậc thánh nhân phản ánh trung thực thể tánh Chân như.

 Ở Như Lai ba thân Phật đều viên mãn. Hóa thân tương đối dễ nhận thấy ; báo thân rất tinh tế ; Pháp thân thật huyền vi, ở bên trên tri kiến nhị biên của thế tục, cũng do đó mà không thể nói năng, diễn giải hay nghĩ bàn.

 

 

Niết bàn :

 Về « niết bàn » ta có thành ngữ « nhập niết bàn ». Thành ngữ đó có hàm ý niết bàn là một nơi, một cõi nào đó, có vị trí không gian.

 Thực ra niết bàn thuộc cảnh giới của tâm. Đó là « Bản Tâm thanh tịnh ».

 « Bản Tâm thanh tịnh » có hai đặc điểm cơ bản : tâm lăng xăng lặng xuống ; tâm tham chấp tan rã. Cũng do đó mà « thân tâm thường an lạc ».

 Chứng quả niết bànthực chứng « Bản Tâm/Bản Tánh thanh tịnh » đó. Cũng do đó mà bóng dáng của niết bàn có thể cảm nghiệm được trong khi thực hành thiền định sâu lắng. Khi đó thì cái « tâm viên ý mã » lặng xuống, cái tâm tham chấp tan rã, cái tâm an lạc khai mở. Cái dụng của tâm thiền định là như vậy. Trong thiền định ta chứng nghiệm cái « hiện tiền » ; thiền định không nhắm về một mục đích nào khác.

 Về niết bàn thường có sự phân biệt « hữu dư niết bàn » và « vô dư niết bàn ». Ở hữu dư niết bàn thì không còn sự tạo nghiệp trong hiện tại nhưng còn mang tích nghiệp quá khứ và nhận nghiệp quả đó. Ở vô dư niết bàn thì không còn có tạo nghiệp cũng không còn mang tích nghiệp.

 

P

 

Pháp : Chữ « Pháp » có nhiều cung bậc ý nghĩa :

(1) « Pháp » chỉ về đại luật vận hành của Nhất thể vũ trụ. Luật nầy huyền nhiệm, ẩn vi. Con người thuận theo thì được hanh thông, an lạc; ngược lại thì gặp lận đận, muộn phiền. Người xưa có câu : « Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong ». Chữ « thiên » nầy chính là « Pháp » vậy. Từ nghĩa nầy của « Pháp », ta có từ kép « Pháp giới »

(2) Từ nghĩa gốc trên, « Pháp » có nghĩa là « Phật Pháp », chỉ về những lời dạy của Đức Phật, hướng dẫn con người sống an lạc. Từ nghĩa nầy của « Pháp » ta có những từ kép như là : Pháp chiến, Pháp luân, Pháp môn, Pháp nhãn, Pháp tự,... .

(3) « Pháp » chỉ về các vật/việc xảy ra trong đời. Tất cả đều là những dạng của đại luật vũ trụ và qua đó người ta có thể thấy những bài học về Phật Pháp. Do đó mà có câu : «Tất cả các pháp đều là Phật Pháp

 Trong « Diệu cảm », để dễ phân biệt, tạm có quy ước : nghĩa (1) và (2) được viết là « Pháp » ; nghĩa (3) được viết là « pháp ».

 

T

 

Tam thiên đại thiên thế giới: Chỉ về cấu trúc vĩ đại của vũ trụ theo vũ trụ quan của Ấn Độ giáoPhật giáo.

 

 

Tánh :

 (1)Trong ý nghĩa cơ bản nhất, “Tánh”, cũng gọi là “Thể Tánh”, hoặc“Tánh Không”, hay đơn giản“Không”, chỉ về nguồn năng lượng đầu nguồn, ẩn vi, huyền nhiệm, cội nguồn của vạn sự, vạn vật, đồng thời tồn tại xuyên suốt trong các tiến trình biến hiện của vạn sự, vạn vật. Vạn sự, vạn vật biến hiện dưới vô cùng hình danh và sắc tướng được gọi chung là “tướng”. “Tướng” thông với “Tánh” theo cách ngọn ngành thông với nguồn cội, hiện thông với ẩn, hiển thông với vi. Vì thông như vậy nên cũng nói là Tánh tướng không-hai. Tánh vốn cũng có tên là Không; tướng cũng có tên là sắc. Gọi tên như vậy, Tâm Kinh nói về quan hệ “sắc-không”:

Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc;

Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc.

(Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc;

Sắc tức là Không, Không tức là sắc.)

 (2) Tánh cũng có tên là « Bản Tánh », là Phật Tánh » là « Bản Tâm », hoặc đơn giản là « Tâm ». Bản Tánh, hay Bản Tâm đó vốn tự nhiên thanh tịnh. Yêu cầu đặt ra cho hành giả« thấy Tánh », tức là thấy cái « Bản Tánh thanh tịnh » đó. Tâm pháp cốt là thực hành thiền địnhtác dụng là làm tĩnh lặng cái tâm lăng xăng và nhiều tham chấp.

Thế Tôn : Danh hiệu tôn vinh Đức Phật, có nghĩa là đấng được thế gian tôn kính.

Tịnh độ : Cũng đọc là « Tịnh thổ », có nghĩa là nơi/đất thanh tịnh. Theo Phật giáo đại thừa thì mỗi vị Phật có một tịnh độ. Tịnh độ được nói đến nhiều nhất là « Tây Phương Tịnh Độ », hay « Tịnh Độ Di Đà », của Phật A Di Đà.

 Thực ra tịnh độ không phải là một nơi/cõi nào đó. Đó là Bản Tâm thanh tịnh. Do đó muốn « đến » Tây Phương Tịnh Độ thì chỉ cần niệm « lục tự Di Đà » _ « Nam Mô A Di Đà Phật »! Điều quan trọng là niệm với cái tâm thanh tịnh, buông xả mọi tư tưởng, mọi tham chấp. « Thấy » cái tâm thanh tịnh đó là « đến » Tây Phương Tịnh Độ vậy.

 Cơ bản thì là vậy. Thế nhưng trong thực tế tôn giáo thì cũng có điều dị nghị. Từ một truyền thống lâu đời, nhiều tín đồ thực hành pháp môn niệm Phật , tức là tín đồ Tịnh Độ tông, tin rằng mục đích của việc niệm Phật là để được « vãng sinh Tịnh Độ » sau khi lâm chung.

Tu-bồ-đề : Ấy là vị đại đệ tử hàng đầu trong mười vị đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Cũng có danh hiệuHuệ Mạng,Thiện Hiện, hoặc Không Sinh. Ngài Tu-bồ-đề nổi tiếng thông tuệ về Tánh Không.

Tì kheo : danh gọi nam tu sĩ trong phái khất thực.

Tứ cú kệ : bài kệ có bốn câu. Trong kinh Kim Cang có hai bài tứ cú kệ ở các đoạn 25 và 32.

 

V

 

Vô thượng chánh đẳng chánh giác : Chỉ về trí huệ vô thượng của Phật.

Vô vi : tương phản với « hữu vi », « vô vi » chỉ về lĩnh vực không chịu sự chi phối của lý duyên sinh, không ở trong tiến trình sinh diệt, tức là chỉ về cái không sinh diệt.

 Kinh Kim Cang, đoạn 7, có từ « vô vi Pháp ». « Vô vi Pháp » có hai nghĩa thông nhau, xuất phát từ hai nghĩa của chữ »Pháp ».

  . « Vô vi Pháp » có nghĩa là thể và dụng huyền vi không thể nghĩ bàn của vũ trụ.

  . « Vô vi Pháp » cũng có nghĩa là tri kiến uyên thâm về vũ trụ, vốn không thể diễn tả thành lời, mà Đức Phật tạm dùng lời làm phương tiện để truyền đạt đến các đệ tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6810)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6227)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6570)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7809)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6322)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6645)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5757)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5672)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5703)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6832)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6113)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7115)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6242)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6194)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6642)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5922)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6085)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6472)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5745)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6863)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 6033)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5909)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6609)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5519)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5588)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8117)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6169)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5736)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8893)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6550)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5907)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5809)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5308)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6743)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6963)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11092)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8058)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6080)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5434)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7094)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 6026)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6452)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21133)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5840)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7201)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8632)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6916)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7764)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5419)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18689)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14491)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13672)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13629)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11909)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13335)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13725)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14009)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13314)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15082)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16241)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant