Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thứ 12: Chương Hiền Thiện Thủ

23 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7123)
Bài Thứ 12: Chương Hiền Thiện Thủ

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC

BÀI THỨ MƯỜI HAI

C. PHẦN LƯU THÔNG

1. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Hiền Thiền Thủ bồ tát
3. Phật nói tên kinh này
4. Phật nói công đức trì kinh này
5. Phật khuyên các Đệ tử phải bảo hộ người trì kinh này
6. Các vị Thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành

 

XII. CHƯƠNG HIỀN THIỆN THỦ

 

1. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật

Khi ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

-Bạch đức Đại bi Thế Tôn, ngài đã vì chúng con và các chúng sanh đời sau, rộng rãi giảng dạy cho chúng con hiểu ngộ được những việc không thể nghĩ bàn.

Bạch Thế Tôn:

-Kinh Đại thừa này tên gì?

-Chúng con làm sao phụg trì?

-Chúng sanh tu theo kinh này sẽ được công đức gì?

Chúng con làm sao bảo hộ những người thọ trì kinh này?

-Phải truyền bá kinh giáo này ở địa vị nào?

Ngài Hiện THiền Thủ bồ tát, thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn kinh này có hai phần:

a. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát tán thán Phật, vì chúng sanh giảng giải những việc không thể nghĩ bàn

b. Bồ tát hỏi Phât năm điều

1. Kinh này tên là kinh gì?

2. Làm sao phụng trì?

3. Chúng sanh tu theo kinh này sẽ được công đức gì?

4. Làm sao bảo hộ người thọ trì kinh này?

5. Truyền bá kinh này ở địa vị nào?

 

***

2. Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát

Khi ấy đức Thế Tôn khen ngài Hiền Thiện Phủ Bồ tát và dạy rằng:

-Này Thiện nam, hay lắm và quý lắm! ông vì các vị bồ tátchúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai tên kinh và công đức trì kinh này, các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ giáo.

 

LƯỢC GIẢI

Vì muốn cho mưa Pháp gội nhuần chúng sanh đời sau, nên Ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát đứng lên hỏi Phật về việc thọ trìtruyền bá kinh này. Đoạn này Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ và bảo phải chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo

 

***

3. Phật nói tên kinh này

-Này Thiện nam! Kinh này không phải chỉ mình ta nói, mà các đức Phật trong 10 phương nhiều như trăm ngàn muôn ức lần số cát sông Hàng, cũng đều nói kinh này. Các đức Phật trong 3 đời đều bảo hộ kinh này. Mười phương các vị Bồ tát đều quy y kinh này. Kinh này là tròng con mắt của 12 bộ kinh. Kinh này có 5 tên:

1. Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni Kinh

2. Tu Đa LA Liễu Nghĩa kinh

3. Bí mật Vương Tam muội kinh

4. Như Lai quyết định cảnh giới kinh

5. Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh

Các ông phải hết lòng cung kính phụng trì kinh này.

 

LƯỢC GIẢI

Kinh này nói về tánh “Viên giác”. Người ngộ nhập được tánh Viên gaíc thì thành Phật, còn không ngộ được thời làm chúng sanh.

Mục đích của Phật ra đời là dod65 chúng sanh thành Phật song chúng sanh có nhập Viên giác mới được thành Phật. Vì thế nên hằng sa đức Phật ra đời, đều nói kinh Viên giác.

Vì kinh Viên giác rất quý báu như thê,1 nên các đức Như Lai trong 3 đời thường giữ gìnbảo hộ kinh này. Mười phương các vị bồ tát đều quy y kinh này, vì quy y kinh này là quy ý tánh Viên giác.

Giáo pháp của Phật tuy nhiều, nhưng tóm lại chia ra có 12 bộ kinh, tức là 12 loại kinh. Kinh nào cũng đều nhắm một mục did1ch là dạy chúng sanh tu hành thành Phật; mà muốn thành Phật thì phải nhập Viên giác. Bởi thế nên kinh này “tròng con mắt” của 12 bộ kinh

“12 Bộ kinh” - Phật ra đời thuyết pháp 40 năm, tóm lại có 3 tạng: Kinh, Luật, và Luận; phân ra 12 bộ, tức là 12 loại

bài kệ tóm 12 bộ kinh:

TRường hàng, Trùng tụngCô khởi

Thí dụ, Nhơn duyên cùng Tự thuyết

Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu

Phương quảng, Luận nghịký biệt

Kinh này có nhiều đức tính và nhiều công dụng nên có nhiều tên:

a. Đại phương Quảng Viên giác Đà La Ni kinh

Tánh Viên gíc Quảng đại phương viên bao trùm và gìn giữ các Pháp.

“Đà La Ni”, Tàu dịch là “Tổng Trì”: bao trùm và gìn giữ các Pháp

1. Pháp Đà La Ni. - Chỉ một chữ, một danh hiệu hay một câu, mà abao trùm tất cả chữ, tất cả danh hiệu và tất cả câu.

2. Nghĩa Đà La Ni – Như nói Chơn như, Duy tâm, Duy thức, Pháp giới v.v.. đều đã tóm thâu sự vật sai biệt.

3. Định Đà La Ni – Do sức Định mà tinh thần thống nhất tập trung lại, nên phát huy được lực lượng rất mạnh, nhờ đó mà thành tựu được nhiều môn Định (Định Tổng trì).

4. Chú Đà La Ni. - Tức là thần chú. Do hành giả tập trung tinh thần trì chú, nên có sức mạnh làm cho hành giả được toại bản nguyện của mình.

b. “Tu Đa La Liễu Nghĩa”. - Chữ “Tu Đa La”, tàu dịch là “Khế kinh”. Nghĩal à kinh này hiệp với chơn lý và căn cơ của chúng sanh.

Chữ “Liễu Nghĩa”: Nghĩ alý rốt ráo đứng đắn. Kinh của Phật có hai loại:

1. Bất liễu nghĩa kinh là những bộ kinh Phật tùy quốc độ, tùy thời đại và tùy căn cơ, mà phương tiện nói ra, như các kinh về tiểu thừa, nghĩa lý chưa rốt ráo.

2. Liễu nghĩa kinh là những bộ Kinh nghĩa lý rốt ráo đúng đắn, Phật nói đúng chân lý không có tùy thời tuỳ cơ v.v.. Như các kinh Đại thừa. Kinh “viên giác” đây thuộc về kinh Liễu Nghĩa.

c. “Bí Mật Vương Tam muội”. - Chữ “Tam muội” tức là “Tam ma địa”, Tàu dịch:

1. Đẳng trì

2. Chánh định

3. Chánh thụ

4. Chánh tư duy

Viên giác Tam muội này cao cả hơn các pháp Tam muội cho nên gọi là “vương” (vua).

Chữ “Bí mật. – PHáp Viên giác tam muội này, duy có Phật mới hoàn toàn thấu rõ được; ngoài ra như chúng sanh thời không biết, cho đến bực đẳng giác bồ tát cũng chưa có thể thấu tột được, cho nên nói là “bí mật”.

d. “Như Lai quyết định cảnh giới kinh”. - Cảnh giới Viên giác này duy có đức Như Lai mới quyết định chứng nhập được. Từ bực đẳng giác Bồ tát trở xuống, ở trong vòng cầu chứng nhập, nên chưa quyết định được.

e. “Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh”. - Chữ “Như Lai tạng”, nghĩa là “Như Lai” còn tại triền. Bởi các vọng huyễn chưa viễn lyGiác tánh chưa phát hiện. Nghĩa là “quả đức Như Lai” còn bị tiềm tàng ẩn phục trong tâm của chúng sanh; tức là tánh Viên giác còn bị triền phược vậy.

CHữ “Tự tánh”: TÁnh Viên giác tùy duyên ứng hiện ra các pháp sai khác, nên gọi là “sai biệt”.

 

***

4. Phật nói công đức trì kinh này

-Này Thiện nam! Kinh này nói về cảnh giới của Như Lai, nên duy có Phật mới hay biế,t còn các vị Bồ tátchúng sanh đời sau, chỉ y theo đây tu hành lần hồi tiến đến địa vị Phật.

Này Thiện nam! Kinh này tên “Đại thừa đốn giáo”. Những chúng sanh đốn cơ mới có thể do kinh này được khai ngộ. Kinh này cũng tiếp độ các chúng sanh về tiệm tu. Bởi thế nên kinh này cũng như biển cả, không nhượng các dòng sông nhỏ. Lớn như Thần A Tu La và nhỏ như loài mòng muỗi, uống nước biển đều no bụng cả.

Này thiện nam! Giả sử có người dùng t oàn 7 món báu, chứa đầy cả đại thiên thế giới, đem ra bố thí; công đức của người ấy rất lớn, nhưng không bằng có người nghe tên kinh này, cho đến chỉ nghe nghĩa một câu, công đức người này nhiều hơn.

Này thiện nam! Giả sử có người giáo hóa chúng sanh tu hành chứng được quả A La Hán nhiều đến trăm lần số cát sông Hằng, nhưng không bằng có người giảng nói kinh này, cho đến rất ít là chỉ giảng nửa bài kệ, công đức của người sau này nhiều hơn.

Này thiện nam! Nếu có người nghe kinh này tin tưởng không nghi ngờ, thì biết người đó đã trồng phước huệ không những ở một đời Phật, hoặc hai đời P hật, mà người này đã trồng căn lành từ nhiều đời Phật, như số cát sông Hằng; cho nên nay nghe đến kinh này mới hay tin thọ.

 

LƯỢC GIẢI

Đoạn này có 5 phần:

1. Kinh này nói về cảnh giới viên giác nên duy có Phật mớihay thấu triệt, còn từ các vị Bồ tát trở xuống chỉ y theo đây tu hành mà thôi

2. Kinh này thuộc về Đại thừa đốn giáo, nên rất hợp với những người căn cơ Đại thừa đốn ngộ. Song kinh này cũng tiếp độ các người căn cơ Tiểu thừa tiệm tu; thí như biển cả không nhượng các dòng sông. Tất cả chúng sanh lớn như A Tu La (Dụ đại thừa) nhỏ như mòng muỗi (dụ nhị thừa) uống nước biển đều được no cả.

“Đốn giáo”. – Ngài Phổ Hiền phân TÂm tạng kinh giáo của Phật làm năm thời:

1. Tiểu (tiểu thừa)

2. Thỉ (đại thừa thỉ giáo)

3. Chúng (Đại thừa rốt sau)

4. Đốn (Đại thừa đốn giáo - Chữ “Đốn” là mau lẹ, nhanh chóng)

5. Viên (Đại thừa viên mãn)

Ngài Thiên Thai lại phân làm bốn thời:

1. Tạng (tiểu thừa tạng giáo)

2. Thông (Thông đến đại thừa)

3. Biệt (đặc biệt Đại thừa)

4. Viên (đại thừa viên giáo

3. Phật dạy người thọ trì kinh này, công đức quý hơn người bố thí bảo vật. Người dùng bảy món báu đụng đầy cả Đại thiên thế giới, đem bố thí cho chúng sanh, công đức của người ấy tuy lớn, nhưng thuộc vè phước hữu lậu, nên chỉ hưởng trong một thời gian rồi hết. Không bằng người nghe tên kinh này, cho đến chỉ nghe một câu nghĩa, tuy rằng ít, nhưng đã gieo được hạt giống vô lậu thanh tịnh, không sớm thì muộn, thế nào cũng được quả vô lậu, nên quý hơn tài thí.

4. NGười giảng kinh này, công đức nhiều hơn người giáo hoá vô số hàng Nhị thừa. Vì giáo hóa vô số người chứng quả Nhị thừa, công đức tuy lớn, nhưng chỉ thuộc về Tiểu thừa quả, nên không bằng người y theo kinh liễu nghĩa Đại thừa nói một câu hay một bài kệ, làm cho người ngộ được tánh Viên giác, không sớm thì chày người ấy quyết định sẽ được thành PhậtVí như các ngôi sao tuy nhiều, nhưng sáng không bằng một mặt trăng.

5. Người nghe kinh này mà sanh tâm vui mừng, ham mộ và tin tưởng, không nghi ngờ, thì biết người này đã có trồng hạt giống đại thừa, từ nhiều đời đức Phật.

 

***

5. Phật khuyên các đệ tử phải bảo hộ cho người trì kinh này

-Này Thiện nam! Các ông phải bảo hộ những người tu hành đời mạt pháp, chớ để cho các loài ác mangoại đạo làm não loạn thân tâm của người tu hành, khiến cho họ thối tâm.

 

LƯỢC GIẢI

Đời mạt pháp, chúng ngoại đạo tà sư rất thạnh hành hay làm nhiễu loạn đến người tu hànhNẾu không bảo vệ giữ gìn, thì hành giả sẽ bị chúng ma nhiễu hại, rồi phải thối chí ngã lòng.

 

***

6. Các vị thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành

Khi ấy ở trong pháp hội có tám vạn Thần Kim CAng như ông Hỏa Đầu kim Cang, Tối Thoái Kim Cang, Ni Lam Bà Kim Cang, cùng với quyến thuộc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:

-BẠch Thế Tôn! Nếu các chúng sanh đời sau, có người nào thọ trì kinh Đaị thừa này, thì chúng con nguyện bảo hộ người ấy giữ gìn tròng con mắt; cho đến chỗ đạo tràng của người này tu hành, chúng con cũng nguyện dẫn hết binh tướng đến đó, sớm chiều bảo hộ, khiến cho họ chẳng thối chuyển. Chỗ nhà cửa của người này ở, hằn không có tai chướng, các tật bịnh đều tiêu hết, của báu giàu có, thường chẳng thiếu thốn.

Khi ấy ông Đại Phạm Vương và 28 vị Thiên Vương,cùng ông Tu Di Sơn VươngHộ Quốc Thiên Vương v.v... đều đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:

-Bạch Đức THế! Chúng con cũng nguyện bảo hộ người thọ trì kinh này, thường được an ổn, tâm chẳng thối lui.

Khi ấy có Đại Lực Quỷ Vương, tên là Cát BÀn Trà cùng với 10 vạn Quỷ Vương, đứng dậy đi quynh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và thưa rằng:

-Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện sớm chiều hộ vệ người thọ trì kinh này, khiến cho họ không thối lui. Chỗ của người trì kinh ở, trong khaỏng một do tuần (10 dặm) nếu có chúng quỷ thần nào đến xâm phạm cảnh giới này, thì chúng con sẽ đập nó nát như vi trần.

Khi ấy tất cả Đại chúng như các vị Bồ tát, thiên long, Quỷ thần, quyến thuộc của 8 bộ Quỷ thầnchư thiên, PHạm vương v.v.. nghe Phật nói kinh này đều hoan hỷ, tín thọphụng hành

 

LƯỢC GIẢI

Chương thứ 12 này là nói về việc truyền bá lưu thôngThính chúng trong pháp hội, trên từ các vị đại Bồ tát dưới cho đến chúng quỷ thần, nghe Phật nói kinh này, từ chương thứ 11 là chương Viên giác rồi, tất cả đều lấy làm quý báu vô cùng, lợi lạc cho chúng sanh vô tận, nên hớn hở vui mừng, tin thọ và phụng hành. Bởi thế nên các vị Thiện thần đều phát nguyện bảo hộ kinh và triệt để ủng hộ người thọ trì đọc tụng kinh này.

CHúng ta chắc đã có trồng căn lành từ nhiều đời trước, cho nên hôm nay mới có diễm phúc được nghe kinh này. ước mong qúy vị mỗi ngày nên phát Bồ đề tâm tu hànhtruyền bá kinh này được phổ cập quần sanh. Thế là chúng ta đã đền đáp được ơn Phật mà cũng thực hành theo hạnh Phật là “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn”.

 

CHUNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18417)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16772)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13341)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12823)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13655)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11818)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14349)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17841)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22723)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13536)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15668)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16175)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11456)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15795)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13232)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 22041)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16345)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19287)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24984)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17793)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17177)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18722)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19150)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18966)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14489)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23186)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28667)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15269)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13782)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16610)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143954)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16398)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17516)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47471)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39239)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15849)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23262)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16827)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14348)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13944)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17308)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14422)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16973)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 28058)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50285)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38598)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28628)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52287)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35932)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32941)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50897)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49779)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57117)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47595)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39445)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38496)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36625)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32263)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46738)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant