Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tám : Phân Biệt Các Ma Sự

07 Tháng Mười 201000:00(Xem: 3775)
Phần Tám : Phân Biệt Các Ma Sự

PHẦN TÁM
NHẬN BIẾT CÁC MA SỰ

Ma theo tiếng Phạn là Ma-la (Mara), tức là loài hung dữ, cướp công đức và giết huệ mạng của người tu hành. Ma thường phá hoại thiện căn của chúng sanh, khiến cho trôi lăn trong đường sinh tử.

Ma có bốn thứ là:

Phiền não ma.
Âm nhập giới ma,
Tử ma
Quỷ thần ma.

Ba thứ ma trên là thường sự thế gian, theo tự tâmsinh tử nên giữ chánh niệm thì trừ bỏ được. Duy chỉ có loại quỷ thần ma là đáng chú tâm hơn cả.

Quỷ thần ma có ba thứ:

1. Tinh mî - là những thú vật biến hóa ra nhiều hình sắc, hoặc hóa ra người thiếu nữ, hoặc hóa ra vị tôn túc, cho đến hóa ra những thân rất đáng kinh sợ. để khuấy phá những người tu hành. Khi biết được nó là loài tinh mî thú vật, thì chỉ tên quở trách là tự nó tiêu diệt.

2. Đôi dịch quỷ - là loài làm nhiều việc quấy rối ngươì tu hành, hoặc hóa ra nhiều con sâu, con bò cạp đậu trên đầu, trên mặt, chích đốt liên tiếp, hoặc gõ và cù trong hai nách, hoặc bỗn nhiên làm những tình trạng các thú vật để khuấy rối người tu hành. Khi nhận biết được thì nên nhất tâm nhắm mắt, thầm quở trách nó: "chúng mày là giống tà ma, thích việc phá giới, nay ta trì giới quyết không sợ mày." Rồi tụng các giới bổn, như người tại gia trì tụng tam quy, ngũ giới . thì quỷ sẽ khúm núm rút lui. Nếu tụng giới mà quỷ chưa chịu rút lui, thì nên nhất tâm niệm Phật, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm, hoặc niệm các vị Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát, thì ma cảnh tự tiêu diệt.

3. Ma não - Giống ma này phần nhiều hóa ra ba thứ cảnh giới ngũ trần để làm rối loạn người tu hành. Bọn ma này cũng gọi là Ngũ tiển - nghĩa là năm cái tên bắn vào ngũ tình vật. Ma hóa ra ba cảnh giới đó là:

a)Ma hoá ra những việc trái ý, những ngũ trần đáng sợ như cọp, sư tử, la sát, khiến cho người tu hành phải khiếp sợ

b)Ma hóa ra những việc vừa lòng, những ngũ trần đáng ưa, khiến cho tâm sinh ái trước, như hóa ra cha mẹ anh em, hình tượng chư Phật, hoặc những người con trai, con gái xinh đẹp.

c)Ma hóa ra những cảnh bình thường, cốt để làm cho tâm loạn động, mất hết thiền định.

Ngoài ra, ma có thể hóa ra tiếng hay, tiếng dở, mùi thơm, mùi thối, vị ngon, vị dở, những cảm xúc khó chịu.. Để làm cho hành giả rối loạn, để phá hoại Phật Pháp bình đẳng, khiến lòng sinh ra ham muốn, lo sầu, giận ghét, thiếp ngủ.

Hành giả muốn trừ bỏ những ma sự đó, thì phải thực hành Chỉ Quán. Thực hành Chỉ Quán thì nhận biết tất cả ma cảnh đều là hư huyễn. Không lo, không sợ, không trước, không xả khi tâm phân biệt dừng nghỉ, thì các ma cảnh tự tiêu diệt. Nếu thực hành pháp Chỉ mà chưa diệt được thì dùng phép Quán, quán các thứ ma cảnh đều do phân biệt hiển hiện, trở lại quán cái tâm phân biệt, không thấy tướng mạo thì còn ai bị khuấy phá nữa. Nếu các ma cảnh không chịu tiêu trừ thì nên giữ vững chánh niệm, không sinh sợ hãi, không tiếc thân mạng, biết tánh chân như của ma cảnh cũng tức là tánh chân như của Phật giới, một Như chứ không có hai Như. Biết được như thế thì không sinh lòng thủ, xả, Phật Pháp tự nhiên hiện bày, ma cảnh tự nhiên tiêu diệt.

Lại thấy ma cảnh không diệt, cũng không cần lo sợ, nếu thấy ma cảnh diệt trừ cũng không có gì vui mừng. Vì sao vậy? Vì chưa hề thấy người tọa thiền bị những giống cọp do ma hóa ra ăn thịt, cũng chưa từng thấy những người con trai, con gái, do ma hóa ra lại có thể thành chồng thành vợ. Đó chỉ là những cảnh huyễn hóa, chỉ vì hành giả không rõ nên mới sinh lòng lo sợ, tham trước mà thôi. Sinh tham trước, kinh sợ thì tâm loạn động, đến nôĩ mất cả thiền định, trở nên điên dại. Đó là người tu hành không có trí, tự gây tai họa cho mình, chứ không phải do ma gây ra tai họa.

Hành giả giữ vững chánh niệm, không tiếc thân mạng, thường niệm Tam Bảo, thường tụng các Kinh Đại thừa thì ma cảnh quyết định sẽ tiêu diệt.

Ma cảnh rất nhiều, không thể nói hết được. Nó có thể khiến hành giả tâm thần điên loạn, hoặc mừng, hoặc lo, nhân đó mà sinh bệnh đến chết. Hoặc cho có những tà định, tà trí, tà thần thông, thuyết pháp dạy người, làm họ tín phục, nhưng về sau thì phá hoại chánh pháp, phá hoại các thiện sự xuất thế gian. Vì thế hành giả nên thân cận thiện trí thức để kịp thời nhận biết các ma sự. Nếu người tu hành diệt trừ vọng tưởng, không nhận các cảnh giới hư huyễn là thật, nếu quán được thật tướng của các pháp, khéo thực hành Chỉ Quán thì không có ma sự nào khuấy phá được. Thích Luận có nói: "Ngoài thật tướng các pháp tất cả đều là ma sự", hoặc như trong câu kệ:

"Nếu nhớ tưởng phân biệt,
Thì sa vào lưới ma;
Không động, không phân biệt,
Thì đó là Pháp ấn".

Với Pháp ấn vô phân biệt, không còn có ma sự nào cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11117)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16481)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11949)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12139)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12826)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12758)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10275)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14008)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10263)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13750)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16300)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12021)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13018)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11691)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12720)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10834)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11029)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10973)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11925)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12809)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11113)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12650)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11366)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12571)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14138)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10888)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10558)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11237)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12040)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13191)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15389)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14360)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12141)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15409)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12037)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12447)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11223)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12125)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10656)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12579)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13203)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14870)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12735)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16612)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19714)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12295)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13562)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11982)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11664)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12792)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14561)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12660)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15697)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13655)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12931)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18045)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11211)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12217)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13089)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant