Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

42 Vài Nét Về Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật Kinh

29 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7714)
42 Vài Nét Về Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật Kinh

BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng

42 Vài Nét Về Kim Cang Bát Nhã Ba-La-Mật Kinh


Khi nói về Kinh Kim Cang thì có tất cả tám bộ, nhưng về sau được phân tích kỹ lưỡng thì kinh nầy được chi làm thành mười bộ.

Thứ nhất là Kinh Đại Bát Nhã, có sáu trăm quyển. Trong thời gian Ngài Huyền Trang dịch kinh đó thì có hoa đào đã nở bông sáu lần trong một năm.

Thứ hai là Kinh Phóng quang Bát Nhã, nói về Phật phóng quang khi thuyết bát nhã, gồm ba mươi quyển.

Thứ ba là Kinh Ma Ha Bát Nhã. Ma Ha có nghĩa là “đại” nhưng không cùng một danh xưng với Kinh Đại Bát Nhã, và kinh nầy gồm ba mươi quyển.

Thứ tư là Kinh Quang Tán Bát Nhã, có nghĩa là Phật phóng quang khi tán thán bát nhã, gồm có mười quyển.

Thứ năm gọi là Kinh Đạo Hạnh Bát Nhã, gốm có mười quyển.

Thứ sáu là Tiểu Phẩm Bát Nhã, gồm có mười quyển.

Thứ bảy là Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, gồm bảy quyển.

Thứ tám là Nhân Vương Bát Nhã, tức Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Kinh, gồm có hai quyển.

Thứ chín là Thực Tướng Bát Nhã chỉ có một quyển.

Thứ mười là Văn Thù Bát Nhã cũng chỉ có một quyển.

Tổng cộng toàn bộ Bát Nhã là bảy trăm lẻ một quyển.

Trí tuệ bát nhã hiển hiện ở mọi cảnh, mọi nơi cũng như khi nhìn cụm trúc xanh hay đóa hoa vàng thì đâu đâu cũng là bát nhã.

Có tất cả sáu vị Pháp sư đã dịch những bộ Kinh Bát Nhã trên. Đó là:

1) Bản dịch của Pháp sư Cưu-ma-la-thập lấy tên là Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật Kinh vào đời Diêu Tần

2) Vị thứ hai là Ngài Bồ-đề-lưu-chi vào thời nguyên Ngụy.

3) Vị thứ ba là Chân-đế dịch vào thời kỳ Nam-Bắc triều. Cả ba cùng đề chung một tên là Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật Kinh.

4) Vào triều đại nhà Tùy có Pháp sư Cấp-đa dịch và lấy tên là Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật Kinh.

5) Vị thứ năm là Ngài Huyền Trang bắt đầu phiên dịch từ năm Trinh-quán thứ 19 đời Đường. Ngài lấy tên kinh là Kim Cang Năng Đoạn Bát Nhã Ba-la-mật Kinh.

6) Vị thứ sáu là Pháp sư Nghĩa Tịnh. Ngài Nghĩa Tịnh cũng qua Ấn độ lưu học như Ngài Huyền Trangtrở về nước vào thời của Võ Tắc Thiên. Bản dịch sau cùng nầy cũng lấy tên là Kim Cang Năng Đoạn Bát Nhã ba-la-mật Kinh.



Trong sáu bản dịch vừa nói ở trên thì bản của Ngài Cưu-ma-la-thập là thông dụng hơn cả. Tại sao? Dựa theo kinh điển thì Pháp sư Cuu-ma-la-thập đã từng đảm nhiệm việc phiên dịch cho bảy vị Phật của đời quá khứ, do đó các kinh điển do Pháp sư dịch rất đúng với ý Phật. Trước khi lâm chung, Ngài Cưu-ma-la-thập có dặn rằng:”Sau khi ta mệnh chung, hãy đem nhục thể của ta hỏa thiêu. Nếu quả thực các kinh điển do ta phiên dịch không có điều gì sai lầm thì lưỡi của ta không bị hủy hoại. Còn như nếu là sai với tâm ý của Phật thì lưỡi của ta tất bị thiêu hóa”. Sau khi thiêu xong, người ta thấy lưỡi của Pháp sư vẫn giữ màu hồng tươi, không hề bị cháy. Điều nầy chứng minh Pháp sư Cưu-ma-la-thập dịch kinh rất chính xác.



Bát Nhãtrí tuệ và nếu con người muốn thành đạt được cái trí tuệ quý báu nầy thì phải trải qua ba thời kỳ. Đó là Văn Tự Bát Nhã, Quán Chiếu Bát NhãThực Tướng Bát Nhã. Văn tựhọc hỏi để thấu suốt những ý nghĩa trong kinh. Sau đó mới tư duy, suy nghĩ lại những lời dạy trong kinh để nhận được chân giá trị của nó. Khi đã thấu suốt thì trí tuệ sẽ phát sinh để nhận biếtáp dụng những chân lý nầy vào trong cuộc sống thường nhật mà đạt được cảnh an vui tự tại. Nói một cách khác vì người diễn giảng là văn tự bát nhã, chẳng chấp ở tướng là quán chiếu bát nhãnhư như bất độngthật tướng bát nhã.



Phật dạy:” Nếu chúng sinh muốn có vô lượng phước đức thì chúng sinh ấy không còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả”. Tại sao? Không còn tướng ngã tức là không có Ta có nghĩa là coi mình như không Có. Không có tướng nhân là không có người. Ta cũng không, người cũng không cho nên chúng sinh cũng không có luôn. Mà chúng sinh là không thì tự nhiên không có thọ giả bởi vì tướng thọ giả là niềm hy vọng sống mãi mãi và hễ luyến tiếc một cái gì thì không muốn nó bị hư hỏng nên gọi là thọ giả tướng.



Nếu trong tâm của chúng sinh còn có tướng tức là hãy còn chấp tướng có nghĩa là chấp có mình, có người, có chúng sinh và có thọ giả thì không thể buông xảdĩ nhiên không thể nào giải thoát được.



Phật pháp vốn không cần phải học vì ai cũng có và ai cũng biết chỉ cần chúng ta trừ bỏ mọi chấp trước tức là tâm đừng dính mắc thì Phật pháp sẽ hiện ra. Nếu tâm còn dính mắc tức là còn trụ thì con người càng tìm kiếm Phật pháp thì họ càng không thấy. Nói một cách đơn giản là nếu tay trái buông bỏ mọi dính mắc thì tay phải sẽ lấy được Bát nhã. Thật ra Thực tướng Bát Nhãhư không và trải khắp pháp giới thì làm sao bắt lấy được, nhưng chúng ta vốn ở trong Thực Tướng Bát nhã cho nên Lục Tổ mới có bài kệ là:



Bồ-đề không phải cây,

Chân tâm không phải đài,

Xưa nay không một vật,

Chỗ nào dính bụi trần.

Nếu chúng ta thật sự buông bỏ được thì sẽ thể nghiệm được ý nghĩa của mấy câu trên và lúc đó sẽ đạt được bổn lai Thực tướng bát nhã. Nói tới chứng được cũng là một cách nói bởi vì chứng đắc chỉ là cái tên, nhưng trên căn bản thì chẳng có chứng đắc cái gì cả tức là vô sở đắc bởi vì nếu chúng ta chẳng mất cái gì thì chúng ta cũng chẳng cần được.

Một hôm tôn giả Tu-bồ-đề bạch với Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Phật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề có phải là không có đắc gì cả ư?”

Phật bảo: “Đúng thế! Đúng thế! Tu-bồ-đề! Ta đối với vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho đến một chút pháp cũng không chứng đắc, ấy gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác”.

Tại sao Phật lại nói đối với pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho đến một chút xíu pháp ta cũng không chứng đắc, chẳng qua chỉ là giả đặt cho nó một cái tên gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác mà thôi, chớ thật ra chẳng có cái gì là thật thể cả?

Nếu muốn biết có đắc hay không đắc thì trước tiên phải biết có mất hay không mất. Nếu pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác là một thứ đã từng bị mất đi tức là thất thì nay mới có thể nói là kiếm lại được tức là đắc. Thật sự chúng ta đâu có mất mát gì bởi vì pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác chính là bổn tính cố hữu của chúng ta. Đó chính là “hạt ngọc trong áo, chẳng lo tìm cầu”. Bây giờ chúng ta chỉ cần mở áo ra coi thì sẽ thấy hạt ngọc ngay. Vô thượng chánh đẳng chánh giác là một tên khác của quả vị Phật và nó không phải là một vật do bên ngoài mang lại cho ta mà chính là gia bảo của ta chớ đâu phải do ta thừa hưởng từ người ngoài.

Có người lại nói rằng:”Dựa theo Bát nhã thì Phật pháp cũng không thì còn nói Lục độ, vạn hạnh để làm gì? Nếu đã là không pháp thì cần gì phải trì giới, hoặc chẳng cần tu phước?” Đây là quan niệm tà kiến bởi vì tuy nói không chấp tướng nhưng con người phải y theo pháp mà tu hành. Thí dụ khi trì giới thì trong tâm không khởi lên chấp trước hay dính mắc và khi làm công đức cũng không khởi tâm chấp trước. Nếu khôngchấp trước tức là tâm không còn dính mắc thì công đức tất sẽ tận cùng hư khôngtrùm khắp pháp giới. Vì thế, người Phật tử không thể coi phước là không, họa là không, cái gì cũng không thì mới khỏi rơi vào ba đường dữ.

Phật lại dạy:

“Tu-bồ-đề! Nếu có người ưa pháp nhỏ, dính mắc ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến thì chẳng thể nghe, thọ trì, đọc, tụng, kinh nầy và giảng cho người khác nghe”.

Nếu chúng ta thích pháp Tiểu thừa tức là còn chấp ngã kiến. Mà nếu còn chấp ngã kiến tức là còn tâm tham; còn chấp nhân kiến thì còn tâm sân; còn chấp chúng sinh kiến thì còn tâm si và còn chấp thọ giả tướng thì còn cái thấy ngu si. Bởi họ chỉ biết ưa pháp Tiểu thừa nên họ không thể nảo lãnh thọ được diệu lý của Kinh Kim Cang tức là Thực TướngVô Tướng.

Đoạn trên nói vế ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng và đoạn nầy nói về ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến. Do đó Kiến và Tướng khác nhau thế nào? Tướng là hình tướng do mắt nhìn thấy rồi chấp vào tướng đó. Còn Kiến là thấy do tâm ý chấp vào cái sự “thấy” nên kiến là một loại chấp trước vi tế. Tướng là loại chấp trước thô tức là thuộc về phần bên ngoài nên dễ coi nó là Không. Vi tế thì sâu xa hơn vì nó nằm ở bên trong thuộc phạm vi tâm ý do sự phân biệt của ý thức mà có. Cái gì ở bên ngoài thì dễ trừ khử còn cái ở bên trong thì rất vi tế nên khó tiêu trừ nên khó coi nó là Không. Vì thế Đức Phật lại dạy rằng:”Không những phải lìa Tướng để hàng phục tâm mà còn phải lìa Kiến thì lúc đó mới có thể chứng được nhân không, pháp không và không không”.

Phật lại dạy:

“Tu-bồ-đề! Ý ông thế nào? Ông chớ bảo Như Lai khởi niệm thế này”ta phải độ chúng sinh”. Tu bồ đề! Đừng nghĩ vậy. Tại sao? Thật chẳng có chúng sinhNhư Lai độ”.

Như Laichúng sinh chỉ là một cho nên Như Lai không độ chúng sinh. Như Lai không độ chúng sinh mà chính chúng sinh tự độ cho mình. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn cũng có câu:”Khi mê thì thầy độ, khi ngộ thì tự độ” có nghĩa là khi mê thì sự phụ độ cho đồ đệ còn khi ngộ thì tự mình độ cho mình. Cho nên trong khi chúng sinh mê lầm thì Phật độ cho chúng sinh còn nếu giác ngộ rồi thì chúng sinh tự độ lấy cho mình. Khi nói giác ngộ thì ai là kẻ giác ngộ cho mình đây? Chẳng phải là Phật đã cho ta sự giác ngộ mà chính chúng ta đã tự mình giác ngộ cho nên bài kệ ở trên Đức Phật nói chẳng độ chúng sinh là vậy.

Thêm nữa kinh cũng có câu:” Chân pháp giớibình đẳng, Phật chẳng độ chúng sinh” có nghĩa là chúng sinh với Phật là bình đẳng. Nói một cách khác là Phật chẳng hơn chúng sinhchúng sinh chẳng kém Phật cho nên mới nói:”Thật chẳng có chúng sinhNhư Lai độ”.

Khi nói về ý nghĩa của Như Lai thì Phật dạy tiếp:

“Tu-bồ-đề! Nếu có người nói Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, người ấy không hiểu nghĩa lời ta nói. Tại sao? Vì Như Lai chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai”.

Chúng ta nên biết rắng Pháp thân Phật là vô tại vô bất tại tức là chẳng ở mà chẳng không phải ở, bởi vì Pháp thân thì trùm khắp mọi nơi. Nếu đã trùm khắp hết cả mọi nơi thì làm sao có thể nói là Phật đến hay là Phật đi? Nếu đến thì đến từ chỗ nào? Còn bảo rằng Phật đi thì Phật đi về đâu? Nếu chúng ta thấu hiểu Phật pháp thì tất cả sông núi, đất đai, đâu đâu cũng là Pháp thân Phật. Còn nếu không thấu hiểu Phật pháp thì cho dù có thấy Như Lai cũng không hề hay biết. Biết nhận thức Như Lai thì mới dễ dụng công tu hành còn không biết Như Lai thì khó mà tu học được.

Về chữ “Như Lai” thì chữ Như là bất động và chữ Lai là động. Bất động là tĩnh còn động là động. Động tĩnh nhất như có nghĩa là động mà không làm trở ngại tĩnh và tĩnh mà không làm trở ngại động. Như thế thì từ sớm đến tối từ mọi cử chỉ, đi, đứng, nằm, ngồi đều phải dụng công tu hành có nghĩa là lúc nào cũng giữ chánh niệm và sống với tự tánh thanh tịnh của mình. Bất cứ thời khắc nào cũng nên hồi quang phản chiếu đừng để tư tưởng buông lung thì chúng ta đã thấu hiểu ý nghĩa của Như Lai.

Bởi lẽ Phật hóa thân nên chúng ta mới thấy Phật có đi, có đến. Còn Pháp thân Phật thì chẳng đến cũng chẳng đi vì đâu đâu cũng có Pháp thân cả.

Chủ điểm của phần nầy là Phật muốn dạy cho chúng ta đừng khởi tâm phân biệt tức là tốt xấu, giàu nghèo, cao thấp, mạnh yếu, lớn nhỏ… Nếu đoạn trừ được tâm phân biệt thì trí tuệ bát nhã sẽ hiện tiền. Nói một cách khác là trí tuệ bát nhã trong chúng ta hiện ra ít chỉ vì tâm phân biệt của chúng ta nhiều. Nếu chúng ta theo lời Phật dạy mà đoạn trừ tất cả tâm phân biệt, giống như quét dọn rác rưới thì tâm của chúng ta sẽ trở lại tình trạng thanh khiết và lúc đó trí tuệ sẽ hiện tiền. Cũng như câu:”nước trong trăng hiện” nghĩa là khi nào mặt nước trong lặng thì thấy dưới nướcmặt trăng hiện ra.

Tam thiên đại thiên thế giới thì thật rộng lớn vô cùng, không biết đâu là bờ bến. Ngày nay với khoa học văn minhchúng ta vẫn chưa đến được những hành tinh như Thổ tinh, Mộc tinh…thì tam thiên đại thiên thế giới vẫn còn là không gian vô cùng vô tận. Nhưng cái gì tạo thành tam thiên đại thiên thế giới? Tam thiên đại thiên thế giới cho dù có lớn tới đâu đi chăng nữa thì cũng do những hạt bụi nhỏ hợp lại mà thành. Khi làm công đức cũng vậy. Chúng ta cũng làm từ những việc nhỏ mà sau sẽ thành công đức lớn. Vì thế cho dù một điều thiện nhỏ cũng nên làm và một điều ác nhỏ cũng phải tránh. Điều thiện tuy nhỏ nhưng khi tích tụ lại cũng thành điều thiện lớn. Còn điều ác nhỏ nhưng nếu chúng ta cứ làm hoài thì sẽ biến thành đại ác.

Lúc xưa vào thời Diêu Tần tức là cùng thời với Pháp sư Cưu-ma-la-thập có Thiền sư Bạt-đà-la tìm đến hỏi Pháp sư Đạo Sinh rằng:

- Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Vậy cứu cánh của Sắc là gì? Cứu cánh của Không là gì?

Pháp sư Đạo Sinh đáp:

- Những vi trần tức là hạt bụi nhỏ kết tụ lại thành Sắc. Vì những vi trần không có tự tánh nên chúng là Không.

Bạt-đà-la hỏi lại:

- Khi những vi trần chưa hợp lại thì gọi là gì?

Pháp sư Đạo Sinh không đáp được. Lúc ấy Thiền sư Bạt-đà-la mới bảo Đạo Sinh:

- Ông chỉ biết về quả của Sắc-Không mà chưa biết cái nhân của Sắc-Không.

Pháp sư Đạo Sinh là người giảng pháp ưu hạng mà phải chịu đầu hàng, đành phải thỉnh giáo Thiền sư Bạt-đà-la:

- Xin hỏi Hòa Thượng khi những vi trần chưa hợp thì gọi là gì?



Bạt-đà-la bèn nói bài kệ:



Nhất vi không cố chúng vi không,

Chúng vi không cố nhất vi không.

Nhất vi không trung vô chúng vi,

Chúng vi không trung vô nhất vi.

Hai câu đầu có nghĩa là nếu một hạt bụi nhỏ (nhất vi) mà Không thì tất cả bụi nhỏ (chúng vi) cũng là Không bởi vì tất cả bụi nhỏ là do từng mỗi một bụi nhỏ hợp lại mà thành. Ngược lại, nếu tất cả bụi nhỏ mà Không thì một hạt bụi nhỏ nằm trong số đó cũng Không luôn.

Cũng như một chiếc bánh chưng là do sự kết hợp của hàng ngàn hàng vạn hột nếp tạo thành. Mà cứ mỗi hột nếp là do duyên khởi của biết bao nhân duyên như đất, nước, phân bón, hạt giống…nên hột nếp tự nó không có chủ thể tức là tự tánh vì thế hột nếp là Không. Một hột nếp là Không thì muôn ngàn hột nếp kết lại cũng là Không. Nói một cách khác một hột nếp (nhất vi) là Không thì cái bánh chưng (chúng vi) cũng là Không.

Hai câu sau có nghĩa là nếu một hạt bụi nhỏ cũng không có thì làm gì có một khối hạt bụi? Ngược lại, một khối hạt bụi đã không rồi thì một hạt bụi cũng không có. Cho nên cũng chẳng có Không mà cũng chẳng có Sắc.

Sau cùng khi nói về sở thuyết thì Phật dạy rằng:

“Tu-bồ-đề! Nếu người nói Như Laithuyết pháp, tức là phỉ báng Phật, chẳng hiểu lời nói của ta. Tu-bồ-đề! Thuyết pháp ấy là chẳng pháp có thể nói , ấy mới gọi là thuyết pháp”.

Đức Phật đã thuyết pháp ròng rã trong bốn mươi chín năm và biết bao nhiêu kinh điển đến nay vẫn còn để lại cho hậu thế, vậy sao nói Phật không thuyết pháp được?

Lý do Phật nói không thuyết pháp vì Phật không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả. Phật cũng không có sắc tướng cho nên tất cả tướng đều không có. Phật nói tất cả các pháp và quét sạch tất cả mọi pháp, tức Phật vừa thuyết, vừa quét sạch đi, chẳng giữ lại một chút gì cả cho nên một tí nhiễm ô cũng chẳng còn. Tại sao lại phỉ báng Phật? Bởi vì chúng ta không thấu hiểu rằng pháp mà Đức Thế Tôn giảng là Không cho nên lời thuyết pháp ấy là chẳng có pháp để nói. Cũng bởi vì tâm của chúng sanh có sự phân biệt nên Phật mới nói ra bao nhiêu đó. Nếu con người không còn tâm phân biệtquay về sống với cái tự tánh thanh tịnh của mình thì chẳng có pháp gì để nói. Chẳng có pháp để nói tức là nói pháp một cách chân chính.

Một ngày nọ, tôn giả Tu-bồ-đề đang thiền trong một hang ở núi Kỳ Xà Quật thì có vị trời Đế Thích đến rải hoa cúng dường. Trưởng lão hỏi:

- Ai rãi hoa đây?

Trời Đế Thích thưa:

- Con là trời Đế Thích.

- Vì lẽ gì ông tới đây rãi hoa?

- Vì tôn giả nói Bát nhã hay quá nên con đến cúng dường.

- Từ hồi nào tới giờ tôi chưa từng nói một câu, sao ông lại nói tôi thuyết bát nhã?

Tôn giả không thuyết, tôi cũng không nghe. Không thuyết không nghe mới là bát nhã chân chính.

Quý vị thử nghĩ rằng:”không nói, không nghe là bát nhã chân chính” thì quý vị đã nghe qua bát nhã chưa? Nếu quý vị chưa nghe qua thì đó mới là chân bát nhã. Vì thế nếu nói Như Laithuyết pháp tức là chúng ta phỉ báng Phật đấy.

một lần nọ, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi thỉnh Phật một lần chuyển pháp luân nữa thì Đức Phật đáp rằng:

“Trong thời gian bốn mươi chín năm, ta chưa từng nói một chữ nào, sao ông lại thỉnh ta chuyển pháp luân một lần nữa? Hóa ra trước đây ta đã từng chuyển pháp luân rồi sao?”.

Nói mà không nói mới chính là chân bát nhã vậy.

“Cứ chê kẻ khác sai, kẻ khác xấu, còn mình thì luôn đúng, luôn tốt. Nghe người ta khen mình tốt thì vui, thì thích; bị kẻ khác chê xấu thì khó chịu, thì rầu. Đó là nhân-ngã tướng tức là thấy Ta và người là thật Có”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18405)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16756)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13331)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12814)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13649)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11812)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14329)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17833)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22703)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13534)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15653)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16164)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11435)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15769)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13224)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 22024)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16292)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19246)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24958)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17773)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17161)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18712)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19144)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18952)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14480)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23175)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28638)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15252)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13772)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16590)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143905)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16394)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17503)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47456)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39221)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15843)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23239)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16825)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14338)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13938)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17298)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14406)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16965)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 28041)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50267)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38575)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28605)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52255)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35915)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32935)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50871)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63776)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49772)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 57107)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47586)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39432)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36621)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32254)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46729)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant