Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Iv. Đạo Đế

24 Tháng Năm 201100:00(Xem: 4581)
Iv. Đạo Đế

IV. ĐẠO ĐẾ

Đạo đế là chơn lý về con đường đạo dẫn tới Niết Bàn, dập tắt mọi khổ đau, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, giác ngộgiải thoát tối hậu

Sách Phật nói 37 phương pháp, cấu thành con đưòng đạo này, gọi là 37 đạo phẩm, cũng gọi là 37 phần Bồ đề (Bồ đề phần). Cụ thểBốn niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám con đường đạo (Bát chánh đạo). Nay sơ lược giải thích như sau: 

1. Bốn Niệm xứ
Cũng gọi là bốn niệm trú, tức là mục chánh niệm trong Bát chánh đạo, Bốn niệm xứ là bốn đối tượng của tư duyquan sát không bao giờ quên. Đó là thân (kaya), thọ (vedana), tâm (citta), và pháp (dhamma). Luôn luôn nhớ thân, cảm thọ, tâm và các pháp đều là vô thường, khổ và vô ngã. Nếu phân biệt thì quan sát thân là không trong sạch, mọi cảm thọ là khổ, tâm là vô thường, và mọi pháp là vô ngã, không thực thể
Theo kinh tạng nguyên thủy, thì bốn niệm xứcon đường độc nhứt (ekayana magga), đưa người tu hành đến sự giáe ngộ và giải thoát hoàn toàn

2. Bốn chánh cần
Trong Bát chánh đạo, gọi là Chánh tin tấn (sách Hán còn gọi là Tứ chánh đạo, tứ chánh thắng, tứ ý đoạn). Gồm có bốn mục là: 
a. Đoạn trừ điều ác đã khởi lên. 
b. Gắng sức để cho điều ác mới không sinh ra. 
c. Gắng sức để cho điều thiện mới được sinh ra. 
d. Nổ lực để cho điều thiện đã khởi lên được tăng trưởng

Thiện ở đây là mọi cái gì lợi cho lý tưởng tu đạo, và ác là mọi cái gì trở ngại cho lý tưởng tu đạo. Cho nên, theo quan niệm đạo Phật mà nói nỗ lực làm ác, chính là lười biếng chứ không phải là tinh tấn siêng năng. 

3. Bốn thần túc
Sách Hán cũng gọi là tứ như ý túc, là bốn điều như ý được đầy đủ. Ý tứ là muốn có phép thần thông đầy đủ, thì học tập bốn phương pháp này, tức là: 
a. Dục thần túc: tức là lòng muốn có được thiền định
b. Tinh tấn thần túc: nỗ lực để có được thiền dịnh. 
c. Tâm thần túc: tức là nhiếp tâm đầy đủ để có được thiền định
d. Tư duy thần túc : tức là để có thiền định, phải biết tư duy quan sát.

(Có sách gọi tứ như ý túc hay tứ thần túc là: 
a. Dục thần túc
b. Niệm thần túc
c. Tinh tấn thần túc
d. Tuệ thần túc. ) 

4. Năm Căn: 
Tức là Tín, lòng tin. Cần là tinh tấn, Niệm là nghĩ nhớ điều phải (chơn lý), như lý vô thường, vô ngã... Định và Tuệ. Gọi năm mục này là năm căn tức là năm cái gốc để cho người tu tiến tới mạnh mẽ trên con đường đạo. Trong năm cái gốc này thì tín (S.Saddha P.Sraddha) đứng hàng đầu, vì lòng tin chân chánh và chân thànhđộng lực của mọi nỗ lực tu đạo và hướng thiện tránh ác. 
Nên phân biệt năm căn tín ... với năm căn mắt, tai,.. (năm căn này thường gọi là năm căn năng). 

5. Năm Lực
Năm căn nói trên, khi dược phát huy thì biến thành năm sức mạnh, tức năm lực

6. Bảy giác chi
Thất giác chi, sách Hán cũng dịch là Thất Bồ Đề phần, bảy phần Bồ đề, hay Thất giác phần, tức là bảy chi phần của giác ngộ
a. Niệm giác chi: sati-samboijhanga 
b. Trạch pháp giác chi: dhammavicayasamb jjhanga, tức là biết lựa chọn phải, trái, chân ngụy, thiện ác... 
c. Tinh tấn giác chi s. viriya s. nỗ lực hướng tới giác ngộ
d. Hỷ giác chi s.piti. lòng hoan hỷ (trong tu đạođộ sanh). 
e. Khinh an giác chi s. passaddhi. Kinh A Hàm gọi là Ỷ giác chi, tức thân tâm nhẹ nhàng, khinh khoái. 
f. Định giác chi s. samadhi. 
g. Xả giác chi s. upekkha. 

Trên đây là bảy hạng mục tu hành, có liên hệ đến thiền dịnh. Trong kinh tạng Nguyên thủy, sau khi thực hành phép anapanasati (niệm hơi thở ra vào) để thành tựu sự thống nhứt nội tâm, hành giả tu sang phép bốn niệm xứ, và bảy giác chi mà được giác ngộ, giải thoát. Như vậy, có thể thấy bảy giác chi là những mục tu hành cao cấp trên con đường tu đạo

7. Bát chánh đạo
Bát chánh dạo tức là tám con đường đạo hay là con đường đạo tám nhánh. 
a. Chánh kiến: samma-ditthi, tức là kiến giải chính xác, tín ngưỡng chính xác
b. Chánh tư duy: samma-sankappa. Tư duylập chí chính xác đúng đắn
c. Chánh ngữ: samma-vaca, tức không nói dối, không nói lời ác, không nói chia rẽ, không nói lời vô nghĩa. Trái lại, chỉ nói lời chơn thực, lời dịu hiền, lời đoàn kết, lời có ích đối với người nghe. 
d. Chánh nghiệp: samma-kammanta, tức là các hành vi không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm.... thực hành việc tôn trọng sự sống, bố thí, sống trong sạch không trái đạo lý
e. Chánh mạng: samma-ajiva, tức là sống bằng nghề nghiệp chính đáng lương thiện. Nói rộng ra, tức là theo một nề nếp sinh hoạt lành mạnh, giúp cho sức khỏe, tăng năng suất lao dộng, khiến thân tâm luôn được thư thái, nhẹ nhàng. 
g. Chánh tinh tấn: samma-viriya, nỗ lực chính đáng, hướng tới lý tưởng của đạo, siêng làm điều thiện, siêng trừ bỏ ác. 
h. Chánh niệm: samma sati, nghĩ nhớ không quên, lý tưởng tu đạo, tỉnh táo, cảnh giác dù là trong những việc nhỏ, đừng để phạm lỗi, vì những lỗi nhỏ có thể đem lại hậu quả tai hại lớn. Luôn luôn nghĩ nhớ: các pháp là vô thường, vô ngã, mọi cảm thọ đều là khổ, không được mê đắm. 
i. Chánh định: samma-sammadhi, người tu đạo hằng ngày có gắng giữ tinh thần an tịnh, tư tưỏng tập trung không tán loạn thì mọi việc làm mới mong có kết quả như ý. Ngoài ra, người tu đạo cũng tu tập thiền định, mong đạt tới một nội tâm trong sáng thuần tịnh như gương, không còn niệm, không còn tưởng. 
 

BÁT CHÁNH ĐẠOBA MÔN HỌC GIỚI, ĐỊNH, TUỆ 

Bát chánh đạo thực ramột thể thống nhứt, sở dĩ chia ra tám hạng mục là để cho tiện thuyết minh, giảng giải mà thôi. Phật giáo Nam phương thuyết minh mọi quan hệ giữa Bát chánh đạoba môn học như sau: 
Chánh kiếnChánh tư duy... Tuệ học 
Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng... Giới học
Chánh tinh tấn... thông cả ba môn học
Chánh niệm, chánh định... Định học

Về chánh tinh tấn, có sách quy về định học, có sách quy vào tuệ học- Thứ tự tu học các hạng mục trong Bát chánh đạo như thế nào? 

Theo logic, thì phải là thứ tự giới, định, tuệ. Thế nhưng trong bát chánh đạo, lại sắp xếp: Tuệ, giới, định, vì sao? 

Thực ra sau tám mục còn có hai hạng mục nữa là Chánh trí và chánh giải thoát, tổng hợp lại thành 10 pháp vô lậu học. 

Chánh trí và chánh giải thoát thuộc về tuệ học. Như vậy, thứ tự logic của 10 pháp vô lậu học là tuệ, giới, định, tuệ. 

Hai mục chánh tri kiếnchánh tư duy thực rachánh tín đối với những người mới nhập môn. Do đó, toàn bộ thứ tự sẽ là: 
Tín – Giới – Định – Tuệ.
 

QUAN HỆ GIỮA 37 PHẨM BỒ ĐỀBA MÔN HỌC 
Tín căntín lực không cho cả ba môn giới, định, tuệ. Vì tất cả mọi pháp tu hành đều xuất phát từ niềm tin (tín) dựa vào chánh tri kiếnchánh tư duy. Niệm căn, niệm lực, niệm giác chi đều thông cả định họctuệ học

Giới: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng

Định: Bốn như ý túc, định căn, định lực, định giác chi, xả giác chi, chánh định

Tuệ: Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, tinh tấn cán, tuệ căn, tinh tấn lực, tuệ lực, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn
 

V. BA MÔN HỌC (Tam học
V.1. GIỚI HỌC
Giới học tức là môn học đạo đức Phật giáo, hay là luân lý Phật giáo. 
Nghĩa từ Giới: Giới, chữ Sanskrit là Sila. Giới là các khuôn mẫu ứng xử, phòng sai, tránh ác của đạo Phật
Các loại giới: giới ngăn điều ác gọi là chỉ ác giới. Chỉ có nghĩa là ngăn chặn. Cũng gọi là luật nghi Samvara. 

Có hai loại giới: Giới hữu lậu thế gian và giới vô lậu xuất thế

Bộ phận hữu lậu giới gọi là Biệt giải thoát luật nghi, giúp cho người tu hành hướng thiện, tránh ác ở cõi Dục giới, đồng thời cũng hướng tới giải thoát

Bộ phận hữu lậu giới, gọi là Tĩnh lự luật nghi, giúp cho hành giả mau chứng các cấp thiền thuộc sắc giới

Giới xuất thế gọi là luật nghi vô lậu

Biệt giải thoát luật nghi lại chia thành giới tại gia và giới xuất gia. Giới tại gia gồm có 5 giới ưu bà tắc và ưu bà đi, hằng ngày cần giữ gìn không phạm, và tám giới cần giữ, trong các ngày gọi là Bát trai. 

Giới xuất gia gồm có 250 giới của Tỳ Kheo, 348 giới của Tỳ Kheo ni, 10 giới của Sadi, 6 giới của chánh học nữ. 
Ưu bà tắc là chữ Phạn Upasaka. Hán dịch nghĩa là cận sự nam

 Hữu lậu giới Biệt giải thoát luật nghi (dục giới)
Chỉ ác giới Tĩnh lự luật nghi (sắc giới)
 Vô lậu giới Vô lậu luật nghi (xuất thế gian)
 
 Giới tại gia 5 giới Ưu bà tắc, Ưu bà di
Biệt giải thoát 8 giới trong các ngày trai
luật nghi Giới xuất gia 10 giới cho sadi và sadi ni
 6 giới cho chánh học nữ
 250 giới cho Tỳ kheo
 348 giới cho Tỳ kheo ni

Thế nhưng, tác dụng của giới cũng không phải chỉ là tránh ác, mà còn là hành thiện nữa. Giới làm điều thiện còn gọi là tác trì giới, hay tác thiện giới. 

Giới và Luật: 
Giới tương đương với đạo đức. Luật tương đương với pháp luật. Giới có ý nghĩa rộng hơn, so với luật Giới là những điều mình giữ cho bản thân mình, nó thuộc về tinh thần, về nội tâm. Còn luật là điều mình giữ vì người khác, vì xã hội. Tuy nhiên trong sách thưòng dùng hai từ này đi kèm với nhau, như trong hợp từ quen thuộc Giới Luật, vì không có ranh giới phân biệt rõ ràng giữa hai từ. 

Về sự thành lập Luật tạng
Luật tạng được kết tập ở cuộc đại hội kết tập lần thứ nhứt, ở thành Vương Xá, vài tháng sau khi Phật Niết Bàn. Người kết tập luật tạngtôn giả Upali, trong thời Phật còn sống vốn được ca ngợi là “Giới luật đệ nhứt”.

Luật tạng, sau khi kết tập, dần dần được hoàn chỉnh và được định hình trong các bộ luật của các bộ phái. Như đã nói trên, luật tạng bao gồm hai nhóm giới luật chính là chỉ trì giới (tránh điều ác) và tác trì giới (làm điều thiện), ứng với hai câu kệ nổi tiếng của Chư Phật. 

Chư ác mặc tác 
Chúng thiện phụng hành 
Dịch: 
Chớ làm các điều ác, 
Làm mọi điều lành

Chỉ trì giới: gồm 250 giới cho Tỳ Kheo và 348 giới cho Tỳ Kheo ni. Tùy theo các bộ phái mà con số giới luậtxê xích khác nhau, nhưng mức độ xê xích không lớn. Trong luật tạng, có phần phân biệt chú giải các giới điều, gọi chung là kinh Phân biệt, P.Suta vibhanga. 

Tác trì giới: gồm các quy định sinh hoạt của tăng đoàn, như quy định về cách thức thọ giới của người xuất gia, về tổ chức tụng giới (Bồ tát) tổ chức an cư kiết hạ, ngày tự tứ, một số quy định về ăn, mặc, ở của tu sĩ, kèm theo phần chú thích những quy định này. Cả phần này gọi là kiền độ (khandhaka). Ngoài hai phần trên, trong luật tạng còn có một phần phụ lục, gọi là phụ tùy (parivara). 

Như vậy luật tạng Pali (Thượng tọa bộ) cũng như luật tạng các bộ phái khác bao gồm 3 bộ phận: 
(1) Kinh phân biệt: giới điều cho Tỳ KheoTỳ Kheo ni, bao gồm cả chú giải
(2) Kiền độ: quy định cách thức sinh hoạt cho tăng đoàn, đại phẩmtiểu phẩm, gồm 22 kiền độ
(3) Phụ tùy

Nói chung, luật tạng (bất cứ thuộc bộ phái nào) đều do ba bộ phận trên tạo thành. Hiện nay, còn giữ lại được 5 bộ luật tạng
1. Luật tạng Pali, thuộc Thượng tọa bộ của Phật giáo Nam Phương
2. Ngũ phần luật : thuộc Hóa địa bộ (tên một bộ phái Phật giáo). 
3. Tứ phần luật : thuộc Pháp tạng bộ
4. Ma ha tăng kỳ luật : thuộc Đại chúng bộ
5. Thập tụng luật : Nhất thiết hữu bộ
6. Hữu bộ tân luật : Căn bản nhứt thiếu hữu bộ
7. Luật tạng bằng chữ Tây Tạng : Căn bản nhứt thiết hữu bộ

(Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ, Đại chúng bộ, Nhất thiết hữu bộ, là tên của một số bộ phái quan trọng, xuất hiện trong thời kỳ Phật giáo bộ phái, khoảng 200 năm sau khi Phật Niết Bàn. Vì từ bộ phái Nhất thiết hữu bộ tách ra một số bộ phái khác, cho nên bộ phái gốc sau này được gọi là căn bản nhất thiết hữu bộ). 

Trong 7 bộ luật được lưu lại hiện nay, và có ghi tên trên đây thì hai bộ thứ sáu và thứ bảy giống nhau, chỉ có khác là bộ luật thứ 6 (thập tụng luật) là một bộ luật không hoàn chỉnh của Hữu bộ. Còn bộ thứ bảy, dịch ra chữ Tây Tạng là một bộ luật hoàn chỉnh và đầy đủ của Hữu bộ. Luật tạng là văn bản cơ sở để quy định sinh hoạt của tăng đoàn. Hiện nay, sinh hoạt của tăng đoàn Phật giáo Nam Phương hoàn toàn dựa vào bộ luật tạng của Thượng tọa bộ. Ở Trung Quốc vào đời Đưòng, tăng sĩ Đạo TuyênNam Sơn, lập ra luật tạng, là dựa vào bộ luật Tứ phần của Pháp Tặng bộ. Vì vậy tông phái của ông cũng có tên gọi “Tứ phần luật Tông”. 

Các giới điều của Tỳ KheoTỳ Kheo ni được xếp làm 8 loại như sau : 
(1) Ba la di: S. Parajaka là giới điều quan trọng nhứt của Tỳ Kheo, người phạm lỗi Ba la di lập tức mất tư cách tăng sĩ vì vậyTrung Quốc dịch nghĩa là đoạn đầu, nghĩa là chém đầu. Cũng như ở ngoài đời, nếu phạm tội cực nặng thì bị chém đầu Đó là các tội: dâm dục, trộm cắp, giết người, đại vọng ngữ (chưa chứng quả Thánh mà dám tuyên bố đã chứng). 

(2) Tăng tàn : S.Sanghavasera P.Sanghade sera. Tội tăng tàn, có mức độ nghiêm trọng, chỉ kém tội Ba la di một bậc. Nếu phạm thì sẽ phải sống biệt trú, và mất quyền lợi tăng sĩ trong một thời gian. Tổng cộng có 13 tội : sờ mó thân phụ nữ, làm môi giới hôn nhân, nói vu và phỉ báng người, làm tăng chúng mất đoàn kết.... 
Có sách giải thích tăng tàn là người phạm tội sám hốicầu xin tăng chúng thương xót, cho duy trì mạng sống tăng sĩ tàn tạ của mình. 

(3) Bất định: S.Aniyata, đây là tội chưa rõ, tuy tăng sĩ có phạm, cho nên gọi là bất định. Gồm có hai loại tội: vi phạm bí mật hay công khai

(4) Xã đọa: Naiksirajika-payattika. P.pissaggiya pacittika. 
Tội có lấy của phi pháp, nhưng sau biết đem nộp lại cho tăng đoàn và xin sám hối. Tổng cộng có 30 tội, gọi là 30 pháp xã đọa. Đó là các tội có liên quan đến y phục và dụng cụ của tăng sĩ. 

(5) Đơn đọa: S.Payattika, P. Pacittika. Một loại tội nhẹ, chỉ cần sám hốimiễn tội. Tổng cộng có 90 tội đơn đọa, cũng gọi là đơn đề. Thí dụ: làm hư hỏng cỏ cây là một tội đơn đọa, ăn quá ngọ (đối với Tăng sĩ Nam Tông) cũng là một tội đơn đọa,v.v... 

(6) Hối quá: S.pratidesamya P.patidesanya. Các lỗi nhỏ liên quan tới ăn uống, chỉ cần sám hối là đủ. Có sách dịch âm là Đề xá ni (S.desana). Có tất cả 4 tội. Thí dụ: nhận thức ăn tín thí quá mức cần thiết... 

(7) Chúng học: S.saíksa P.sekhiya. Các lỗi nhỏ trong sinh hoạt hằng ngày, chỉ cần tự mình phản tĩnh là được. Tổng cộng có 100 lỗi, sách Hán gọi là bách chúng học pháp. Thí dụ: mặc áo không chỉnh tề, cười lộ cả hai hàm răng, nhảy qua lạch nước... 

(8) Diệt tránh: S. adhikarma - samatha. P.adhikarana-samatha Thực sự đây không phải là tội mà là những phương thức giải quyết các vụ tranh cãi trong tăng đoàn. Có 7 điều, sách Hán gọi là thất diệt tránh pháp

Tỳ Kheo ni thọ một số giới nhiều hơn Tỳ Kheo, tức 341 giới so sánh như sau: 

 Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni 
Ba la di 4 8 
Tăng tàn 13 17 
Bất định 2 17 
Xả đọa 30 30 
Đơn đọa 90 178 
Đề xá ni (hối quá) 4 8 
Chúng học 100 100 
Diệt tránh 7 7 

bộ phái đưa số giới của Tỳ Kheo ni lên 348. 

Hai mươi kiền độ của tác trì môn
Kiền độ là dịch âm từ chữ Phạn Khanda, dịch nghĩa là phần hay chương. Hai mươi Kiền dộ là 20 chương, nói về các quy tắc sinh hoạt của tăng già như: 
Kiền độ I: nói về phép thọ giới
Kiền độ II: nói về phép thuyết giớisám hối mỗi tháng hai lần (gọi 
là ngày Bồ tát). 
Kiền độ III: nói về phép an cư kiết hạ hàng năm. 
Kiền dộ IV: nói về tổ chức ngày tự tứ, kết thúc mùa an cư, kiết hạ.
Kiền dộ V: nói về quy tắc các Tỳ Kheo dùng các đồ vật bằng da. 
Kiền độ VI: nói về ba áo của tu sĩ (tam y). 
Kiền dộ VII: nói về bốn loại thuốc dùng cho tăng sĩ. 
Kiền độ VIII : nói về công đức y, mà Tỳ Kheo nhận được vào ngày 
Tự tứ, ngày kết thúc kỳ an cư kiết hạ
Kiền độ IX: nói về phép giáo hóa trong vụ Tăng sĩ mất đoàn kết ở 
Kausambi. 
Kiền độ X: nói về phép đối đãi với Tỳ Kheo là khách từ các nơi khác 
đến. 
Kiền độ XI: nói về phép khiển trách, xử phạt Tỳ Kheo phạm giới
Kiền độ XII: nói về trường hợp Tỳ Kheo phạm tội, nhưng không giấu, 
thì nên sám hối như thế nào. 
Kiền dộ XIII : Tỳ Kheo phạm tội nhưng che giấu, không bộc lộ, phải 
được xử phạt như thế nào. 
Kiền độ XIV: nói về cách thức phạt Tỳ Kheo phạm tội không được ở 
trong chúng. 
Kiền độ XV: nói về cách xử lý tội phá hòa hợp tăng
Kiền độ XVI: nói về bảy pháp xử lý các vụ tranh cãi trong tăng chúng. Kiền độ XVII: nói riêng về quy tắc sinh hoạt của Tỳ Kheo ni
Kiền độ XVIII: nói về uy nghi của Tỳ Kheo
Kiền độ XIX: nói về việc Tỳ Kheo ở trong phòng. 
Kiền độ XX: một số quy tắc sinh hoạt không được quy định trong 19 Kiền độ trên. 
 

Giới thể, giới tướnggiới hạnh 
Giới thểchủng tử lưu lại trong tạng thức của người thọ giới, sau khi được truyền giới. Chủng tử đó có tác dụng bảo vệ người thọ giới cho khỏi phạm giới. Có sách gọi đó là vô biểu sắc
Giới hạnh: là hành vi theo đúng giới luật được thọ trì
Giới tướng: do có giới thể, giới hạnh mà biểu hiện ra ngoài thành giới tướng thanh tịnh, tốt đẹp. Vị tăng sĩ giữ giới, nói năng hành xử, đi đứng nằm ngồi đều uy nghi mực thước

Tông Chân Ngôn (Mật giáo) ở Nhật riêng lập ra hệ thống giới gọi là “Tam muội gia”, lấy ba loại bồ đề tâm làm giới. Nhưng đó chỉ là sự khác biệt về danh từ mà thôi. Còn về nội dung thì cũng không khác gì mười giới thiện (thập thiện giới). Chân TôngNhật Bản (một nhánh của Tông tịnh dộ) thì không có bàn gì tới giới luật cả. 

Tín và giới : 
Vào thời đại Kamakura (Kiếm Thương) ở Nhật, các tông như Nhật Liên Tông, Chân Tông, Thiền Tông đều không chú trọng nhiều tới giới luật. Nhưng theo sự nhận định của nhà Phật học nổi tiếng Nhật Bản là Thủy Giả (xem cuốn Phật giáo yếu ngữ đích cơ sở tri thức tr 233) Phật giáo Nhật Bản thời đại Kiếm Thương rất coi trọng đức tin, và cho rằng đức tin triệt để, bao hàm đầy đủ giới luật rồi. Thí dụ, chuyên tâm niệm Phật, chuyên tâm ngồi thíền, thì ngay từ ở trong ý nghĩlời nói, mọi nghiệp đều đã được thanh tịnh rồi. 

Đây là do giới và tín vốn có quan hệ rất mật thiết. Tăng sĩ trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, có câu : “Nếu có đức tin triệt để, thì tự nhiên có được giới”. (tín nhược triệt để, tự khả hoạch đắc giới). 

Trong kinh Phật nguyên thủy, có khái niệm “Tứ bất hoại tính” tức là bốn niềm tin trong sạch, không mất tức là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin ở Giới luật

Trong kinh Phật nguyên thủy, có bài kệ nổi tiếng là: 
Chư ác mặc tác, 
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý, 
Thị chư Phật giáo 

Nghĩa là : 
Mọi điều ác đều không làm, 
Làm mọi điều thiện 
Tự làm trong sạch tâm ý 
Là lời dạy của các Đức Phật 

Bài kệ này được gọi là bài kệ của bảy vị Phật (gồm cả Phật Thích Ca), cho nên cũng gọi là thất Phật thống giới kệ (bài kệ răn dạy chung của bảy vị Phật). Tinh thần của giới luật là tránh mọi điều ác, làm mọi điều thiện. Làm được như vậy là giới. Tâm ý trong sạch là định và tuệ. Bởi vì tâm có lặng (định) mới sáng (tuệ). 

Giới đại thừa
Đặc điểm của giới đại thừa là cường điệu tính lợi tha. Đại thừa có khái niệm ba nhóm giới trong sạch
1. Nhiếp luật nghi giới
2. Nhiếp thiện pháp giới
3. Nhiếp chúng sanh giới (cũng gọi nhiêu ích hữu tình giới). 

Vì cả ba nhóm giới này, cả đại và tiểu thừa đều tôn trọng cho nên gọi là thông giới

Nhiếp luật nghi giới
S samvarsa-sila. Gọi tắt là luật nghi giới tương đương với các giới tại gia, xuất gia của Phật giáo Nguyên thủy, nhưng theo Đại Thừa giáo thì là Thập thiện giới, hay là thập trọng cấm giới và 48 khinh giới. 
Nội dung của Nhiếp luật nghi giới, chủ yếu là ngăn chặn mọi điều ác.

Nhiếp thiện pháp giới
S.kusala-oharma-samgraha-sila. Chỉ riêng cho 10 giới thiện

Nhiếp chúng sanh giới
S.sattrarthakriya-sila. Chỉ mọi việc làm, có ý nghĩa từ bilợi lạc đối với chúng sanh
Ba nhóm giới này được các kinh như “Anh lạc bổn nghiệp kinh”,... nói tới, và thường được gọi là ba nhóm giới thanh tịnh (tam tụ tịnh giới). 

Thập thiện (10 thiện) và ba nhóm giới: 
Các kinh Bát Nhã (kể cả Đại phẩmtiểu phẩm) đều lấy 10 thiện làm giới đại thừa, kinh Hoa Nghiêm cũng theo thuyết này. 
Trong kinh Bát Nhã, giới Ba La Mật tức là Bồ tát tự mình làm 10 thiện, và khuyến khích người khác cũng làm 10 thiện thực hành đầy đủ cả hai mặt nhiếp luật nghi giớinhiếp thiện pháp giới
Kinh Hoa Nghiêm thì thêm Nhiếp chúng sanh giới thành có ba nhóm giới đầy đủ. 
Bộ luận Du Già sư địa nói cả ba nhóm giới Nhiếp luận nghi giới, nhiếp thiện pháp giớinhiêu ích hữu tình giới, đầy đủ như kinh Hoa Nghiêm. Ba nhóm giới này cũng gọi là Du Già giới. 

Mười thiện giới
1. Không sát sanh
2. Không trộm cắp
3. Không tà dâm
4. Không nói dối
5. Không nói ác, 
6. Không nói chia rẽ , 
7. Không nói phù phiếm
8. Không tham, 
9. Không sân, 
10. Chánh kiến

Mười cấm giới nặng (trọng giới) 
Bồ tát nếu phạm mười giới nặng này, vi phạm tội nặng gọi là Ba La di. Điều này được ghi trong kinh Phạm Võng, cho nên cũng gọi là Phạm Võng giới
Mười cấm giới nặng là: 
1. Không sát sanh
2. Không trộm cắp
3. Không phạm dâm (tà dâm
4. Không nói dối
5. Không bán rượu, 
6. Không nói lỗi người khác, 
7. Không tự khen mình và vùi dập người, 
8. Không keo kiệt đối với Pháp và tài sản
9. Không giận, 
10. Không phỉ báng Tam bảo

Giới Đại thừa của Phật giáo Trung QuốcPhật giáo Nhật Bản:
Người Trung Quốc kết hợp Du già giới (tức ba nhóm giới), Phạm Võng giới (10 giới nặng và 48 giới nhẹ) thành ra Đại thừa giới, cũng gọi là Bồ tát giới, Phật tính giới, Kim cang bảo giới. Phật giáo Trung Quốc kết hợp dùng luật Tứ Phần (Thường gọi là luật Tiểu thừa), với luật Đại thừa (Kinh Phạm Võng). Nói chung, từ đời Tùy Đường về sau, đều kết hợp sử dụng như vậy. 
Nhật Bản, vào đời Nại Lương (Nara) có sư Giám Châu truyền kinh nghiệm kết hợp dùng giới Đại thừaTiểu thừa (của Trung Quốc) vào Nhật Bản. Nhưng đến thời ĐạiTối Trừng, thì Ngài bỏ giới Tiểu thừa, chỉ dùng giới Đại Thừa mà thôi gọi là viên đốn giới (hay Viên giới). Tông Thiên Thai (tendai) và các lưu phái khác ở Nhật, đều theo lập trường đó của Ngài Tối Trừng
Tông Tào Động của sư Đạo Nguyên lập ra 16 giới gọi là Bồ tát giới, gồm Tam quy giới, Tam tụ tịnh giớithập trọng cấm giới. Cái khác của Đạo Nguyên là xem thọ Tam quy là giới. Còn Tam tụ tịnh giới (ba nhóm giới thanh tịnh) và thập trọng cấm giới thì giống như trên. 
Tông Lâm Tế ở Nhật cũng theo lập trường này của Tào Động
 

V.2. ĐỊNH HỌC
Nghĩa của từ Định
Định nghĩa là tâm không tán loạn, là nhất tâm

Bốn cảnh giới định cúa Phật giáo Nguyên thủy
Phật giáo Nguyên thủy nói về 4 cảnh giới định (gọi là bốn cấp thiền) như sau: 
+ Cấp thiền thứ nhứt: (Sơ thiền) xa lìa dục vọng, xa lìa mọi pháp bất thiện, có tầm và tứ, Hỷ lạc nhờ xa lìa dục vọng và pháp bất thiện mà có. 
+ Cấp thiền thứ hai: (Nhị thiền) ngưng chỉ tầm và tứ, nội tâm an tịnh, hỷ lạc nhờ định tâm mà có. 
+ Cấp thiền thứ ba: (Tam thiền) xa lìa tâm hỷ, trú ở xả, thân trú ở lạc + Cấp thiền thứ tư: (Tứ thiền) bỏ khổ lạc, bỏ hỷ ưu, xả niệm thanh tịnh

Các loại định : định là tâm an tịnh, thống nhất. Người còn ở Dục giới, thành tựu được tâm định tạm thời gọi là Dục giới định
Các cảnh giới định ở sắc giớiVô sắc giới mới gọi là căn bổn định. 

Cần nhắc lại ở đây các khái níệm Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới
Dục giới: (S.Kama dhatu) là cõi sống trong đó cảm quan có nhiều dục vọng, hướng tới sắc, thinh, hương, vị, xúc pháp, tức sáu ngoại trần
Sắc giới (S.rupa dhatu): là cõi sống mà dục vọng của cảm quan không còn nữa, nhưng thân vật chất vẫn còn. Chúng sanh ở đây, luôn ở trong trạng thái thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền
Vô sắc giới (S. Arupa dhatu): là cõi sống ở đây chúng sanh không còn có thân vật chất nữa mà chỉ sống cuộc sống thuần túy tinh thần mà thôi. 

Cũng như Sắc giới, Vô sắc giới có 4 cấp thiền, gọi theo thứ tự từ thấp đến cao: 
1. Không Vô biên xứ
2. Thức Vô Biên xứ
3. Vô sở hữu xứ 
4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ

Các thuật ngữ liên quan tới Định học
Samadhi dịch là Định: 
o định ý; 
o tam muội
o tam ma địa
o đẳng trì
o chánh thọ 

dhyana, jhana Hán dịch là Thiền: 
o thiền na
o tĩnh lự
o Tư duy tu 

Samapati Hán dịch là Định, tam ma bát đề, đẳng chí 

samatha Hán dịch là chỉ, xamatha. 

S. Cittankragrata, P.Cittegaggata Hán dịch là tâm chuyên một cảnh. 

Yoga Hán dịch âm Du già

Samadhi: là danh từ chung nhứt, bao gồm các loại định thế gian hữn lậu, cũng như xuất thế vô lậu hữu tâm dịnh, vô tâm định, toàn là các định trong ba giới. 

Dhyana: chỉ loại định của sắc giới mà thôi, không có định của Dục giới, và của Vô sắc giới

Samapatti: là loại định của riêng Sắc giới, và Vô sắc giới không bao hàm định Dục giới. Như vậy, nó bao gồm 9 cấp định từ Sơ thiền sắc giới cho tới Tứ thiền Vô sắc giới, kể cả diệt thọ tưởng định. Gọi chung tất cả là Cửu thứ đệ định (chín cấp định xếp theo thứ tự từ thấp tới cao). 

Samatha: hay dùng đồng thời với Vipasvana, vipassana (quán Tỳ bát xá na). Samatha là chỉ, Samatha vipassana là chỉ quán. Chỉ là nội tâm vắng lặng, Quán là quan sát. Dùng hai từ chỉ quán là muốn nói hai môn định họctuệ học cần phát triển cân bằng. 

Yoga là từ ngữ có trước Phật giáo, cũng chỉ cảnh giới nội tâm thống nhứt. Phật giáo cũng dùng từ Yoga (Du già) trong các khái niệm như Du già hạnh, Du già sư, bộ phái Du già (yogacara) cũng gọi bộ phái Duy Thức.

Samahita Hán dịch âm Tam ma sất da, Hán dịch nghĩa Đẳng dẫn, nhập định

Samapanna : Hán dịch âm Tam ma bác ra, dịch nghĩa căn bổn định. 

Hiện pháp lạc trú: S. drstadhanoma-suk-havihara
P. dittha-dhamma-sukhavihara. 

Năm loại thiền: 
Đời nhà Đường ở Trung Quốc, các thiền sư Khuê Phong, Tôn Mật, phân biệt có năm loại thiền là: 
(1) Ngoại đạo thiền
(2) Phàm phu thiền
(3) Tiểu thừa thiền
(4) Đại thừa thiền
(5) Tối thượng thừa thiền (cũng gọi là Như Lai thiền). 
kết luậnNhư Lai thiềnTổ Sư thiền đều bao hàm có yếu tố giác ngộ tối cao

Các phương pháp tu tập thiền định: 
Về phương pháp tu tập thiền định, kinh sách Phật giáo Nguyên thủy, cũng như các sách luận của Phật giáo bộ phái đều có ghi chép khá cụ thể

Bốn mươi nghiệp xứ
Kinh sách Pali nói tới 40 tối tượng quán, có tác dụng dẫn tới định tâm, gọi là 40 nghiệp xứ (kammatthana), chia làm: 
10 biến xứ : địa, thủy, hỏa, phong, sắc xanh, sắc vàng, sắc đỏ, sắc trắng, ánh sáng, hư không
10 tướng bất tịnh: tướng xác phồng to, tướng xác màu xanh bủng, tướng máu mủ; tướng gân cốt rời rã, tướng thây xác bị côn trùng ăn, tướng xương cốt phân tán rơi vải, tướng gân cốt bị chặt đứt, tướng máu chảy lênh láng, tướng trùng hôi bọ thối, tướng hài cốt
10 tùy niệm: Phật, Pháp. Tăng, Giới, thí (xả), các cõi Trời, chết, hơi thở ra vào, sự vắng lặng ngưng chỉ. 
Bốn vô lưọng tâm: từ, bi, hỷ, xả. 
Bốn cấp thiền Vô sắc: hư không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ
Tướng chán ghét thức ăn
Tưởng về giới sai biệt

Quan hệ giữa tính cách con người và các đối tượng quán nghiệp xứ:
Tính cách người gồm có
1. Bản tính tham (tham hạnh) 
2. Bản tính sân giận (sân hạnh) 
3. Bản tính si mê (si hạnh) 
4. Bản tính tán loạn (tầm hạnh) 
5. Bản tính dễ tin (tín hạnh
6. Bản tính thiên lý trí (giác hạnh

Người bản tính tham nên chọn các pháp quán 10 tướng bất tịnh, quán thân bất tịnh
Người bản tính sân, chọn phép quán bốn vô lượng tâm, bốn sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. 
Người bản tính si và tán loạn, chọn các phép quán theo dõi hơi thở vào ra, (sổ tức quán). 
Người bản tính giàu đức tin, chọn phép quán niệm Phật, Pháp, Tăng, giới, thí, cõi Trời
Người bản tính thiên lý trí, chọn các phép quán niệm chết, niệm chán thức ăn, niệm giới sai biệt

Ngoài ra, còn có các phép quán, thích hợp với mọi tính cách, như quán về bốn cấp thiền Vô sắc, quán các biến xứ địa, thủy, hỏa phong. 
 

Năm phép quán định tâm và ngũ môn thiền
Phép quán Ngũ đình tâm, là phép quán của Hữu bộ được chỉnh lý từ các phép quán đã được nói trong kinh sách Nguyên thủy
1/ Quán bất tịnh: (tức mười phép quán bất tịnh của Phật giáo Nguyên thủy) hợp với loại người có bản tính tham. 
2/ Quán từ bi: (tức quán bốn vô lượng tâm) : từ, bi, hỷ, xả, thích hợp với bản tính sân hận
3/ Quán nhơn duyên: (tức quán 12 nhơn duyên) thích hợp với căn tính si . 
4/ Quán giới sai biệt: (tức là quán 4 đại: địa, thủy, hỏa, phong cấu tạo ra thân nguời), thích hợp với loại người nặng về ngã kiến
5/ Quán hơi thở: (sổ tức quán), đối trị loại người hay có tâm tán loạn

Hữu bộ cũng lập ra phép ngũ môn thiền thích hợp với mọi bản tính con người. Ngũ môn thiền là ngũ đình tâm, trong đó thay phép quán giới sai biệt bằng phép quán niệm Phật. 

Hai mươi lăm phuơng tiện: (chuẩn bị cho tu thiền định) 
Tông Thiên Thai cho rằng, để chuẩn bị cho việc tu thiền có kết quả, cần có đầy đủ: 
1/ Năm duyên : 
- Giữ giới thanh tịnh
- Thức ăn, áo mặc đầy đủ, 
- Nơi ở yên tịnh
- Dẹp các duyên vụ (bỏ bớt các việc không cần thiết
- Gần gũi thiện tri thức
2/ Bỏ năm dục (vọng) 
- Sắc 
- Thanh, 
- Hương, 
- Vị
- Xúc 
3/ Bỏ năm triền cái (tức năm cái ngăn che vưóng mắc) 
- Tham, 
- Sân, 
- Hôn trầm thụy miên
- Trạo cử (lăng xăng
- Nghi. 
4/ Điều hòa năm sự : 
- Ăn uống
- Ngủ nghỉ, 
- Thân, 
- Hơi thở
- Tâm. 
5/ Thực hành năm pháp 
- mong muốn thực tiễn
- Tinh tấn
- niệm, 
- trí huệ thiện xảo
- Nhứt tâm

Mục đích tu tập thiền định: Phật giáo Nguyên thủy nói tới năm công đức của việc tu tập thiền định: 
(1) có sức khỏe, thân tâm an vui. 
(2) có trí tuệ giác ngộ, tức trí tuệ vô lậu
(3) có thần thông: thiên nhỉ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhãn thông... 
(4) Khi mệnh chung, tái sanh lên các cõi Trời Sắc giớiVô sắc
(5) Chứng diệt tận định: (nirodha-samapatti), cấp định này cao hơn cấp tứ thiền của Vô sắc giới, và chỉ có hàng Thánh mới chứng được. 

Kinh A Hàm có nói tới 10 công đức của người tu tập phép quán Tứ vô lượng tâm: (tức là bốn tâm vô lượng từ bi hỉ xả
1. Ngủ yên, 
2. Không có ác mộng
3. Được mọi người yêu mến, 
4. Được loài phi nhân yêu sủng, 
5. Được thần phù hộ
6. Không bị hại bởi lửa, đao kiếm và thuốc độc 
7. Nhanh chóng vào định, 
8. Dung mạo sáng đẹp, 
9. Khi lâm chung không hôn mê
10. Nếu chưa giác ngộ thì ít nhứt cũng được tái sanh lên các cõi Trời Phạm Thiên

Các phép tu từ định vào tuệ: 
Các kinh A Hàm nói đến các phép tu: 
1. Quán năm uẩn
2. Quán bốn đế, 
3. Quán ba tam muộiquán không, quán vô tướng, quán vô 
nguyện (vô nguyện là không còn mong cầu gì bên ngoài). 
4. Tám phép giải thoát
5. Tám thắng xứ
V.3. TUỆ HỌC
1. Các loại Trí tuệ - các từ ngữ
Mục đích cuối cùng của Phật Pháp là có được sự giác ngộ bằng trí tuệ. Vì vậy, nên dù là Tam học (ba môn học), hay thập vô học pháp (10 pháp dẫn tới quả vô học) tức quả A la Hán, sáu pháp Ba la Mật, đều xem trí tuệthành quả cuối cùng

Nhưng có nhiều loại trí tuệ. Có trí tuệ hữu lậu, và trí tuệDục giới, có trí tuệ sơ bộ chứng ngộ, có trí tuệ của A la Hán, có trí tuệ của Bích Chi Phật, có trí tuệ của Bồ tátcuối cùngtrí tuệ tối cao của Phật. 

Cổ ngữ Sanskrit, Pàli và dịch ngữ chữ Hán có nhiều từ ngữ tương đương với trí tuệ: (xếp theo thứ tự sanskrit, Pàli, Hán) 
- Prajna, panna – tuệ, trí tuệ, bát nhã, ba nhã
- jnana, jnana – trí, trí tuệ, xà na, (âm dịch từ jnana)
- Vidyà, vijja – minh 
- Buddhi – Giác, 
- medha bhuri – quảng, quảng tuệ, trí tuệ, rộng lớn.
- Dharsana - dastana, kiến Nại lạt xá nang (dịch âm từ dharsana) 
- drsti-ditthi - kiến, 
- Vipasyana - vipassana – quán, Tỳ bát xá na (âm dịch Vipasyana) 
- Anupapyana - anupastana – tùy quán. 
- Parijna - parinna – biến tri, biết tất cả. 
- Abhijna - abhinna – chứng trí, thần thông
- Ajna - anaa - liễu tri, dĩ tri, A nhã. 
- Samprajana - sampajana - chánh tri. 
- Mimamsa - vimamasa – quán, quán sát
- Pariksa - parikkha - quán, quán sát
- Pratyaveksana-paccavekkhana – quán sát
- Dhamma - vicaya - dhamma vicaya – Trạch pháp
- Pratisamvid - patisambhida – vô ngại giải, vô ngại biện, 

Ngoài ra, còn có những từ ví dụ để nói trí tuệ
- Caksu - cakkhu – là nhãn, con mắt
- Aloka – ánh sáng (quang minh). 

Với sự thể nghiệm cụ thể của trí tuệ, chúng ta có các từ ngữ 
- Bodhi – bồ đề, tức là giác, đạo
- sambodhi, tam bồ đề cũng có nghĩa chánh giác đẳng giác.
 

2. Tuệ và trí: 
Các từ được dùng nhiều nhất là prajna, panna mà Hán dịch đều là trí tuệ. Nhưng Huyền Trang dịch Prajna (panna) là tuệ và dịch jnana là trí. 

Ý nghĩa của tuệ rất rộng. Theo văn chương A Tỳ Đàm thì tuệ có các nghĩa từ thấp đến cao như biết thế nào là thiện là ác; tuệ hữu lậu của phàm phu (gọi là liệt tuệ) và tuệ siêu việt vô lậu của hàng Thánh... và trí tuệ Ba la Mật được hiểu như là trí tuệ toàn thiện, đầy đủ của các Đức Phật

Trí: jnana, nana, được dùng để chỉ trí tuệ đã khai ngộ, do đó mà có các khái niện tận trí (trí tuệ cùng cực, rốt ráo). Vô sinh trí, (trí tuệ chứng được lý vô sinh) chánh trí

Trí ba la mậttrí tuệ tối cao của Bồ tát thập địa, tức là Bồ tát sắp thành Phật

Sách Duy thức nói tới 5 trí của vị Bồ tát đã chứng ngộ
(l) Thành sở tác trí 
(2) Diệu quan sát trí 
(3) Bình đẳng tánh trí
(4) Đại viên cảnh trí
(5) Pháp giới thể tánh trí

Có sách Phật phân biệt ba trí là: 
(1) Nhất thiết trí
(2) Đạo chủng trí
(3) Nhất thiết chủng trí (cũng gọi nhất thiết trí). 

Tuy nhiên, cũng có sách dùng từ trí không khác gì từ tuệ nghĩa là gồm cả hữu lậuvô lậu. Như Luận Câu Xá nói về mười trí:
1/ Thế tục trí 
2/ Pháp trí,
3/ Loại trí
4/ Khổ trí
5/ Tập trí
6/ Diệt trí
7/ Đạo trí
8/ Tha tâm trí
9/ Tận trí
10/ Vô sanh trí

Trong 10 trí nói trên, trừ thế tục trí ra, còn tất cả đều là vô lậu trí. Nếu thêm vào Như thực trí, thì chúng ta có 11 trí của pháp tướng tông Duy thức. Trong số này “như thật trí” là trí tuệ hữu lậu cao nhứt của hàng phàm phu. Có sách phân biệt bốn tuệ là: 
- Hữu sanh đắc tuệ (cũng như nói trí tuệ bẩm sinh) 
- văn tuệ
- Tư tuệ
- Tu tuệ. 

Giải thích các từ đồng nghĩa với tuệ: 
1. Minh vidya, Giác Budhi, Tuệ medha, Quang Bhùri, Nhãn (con mắt) quang minh, (từ minh dùng trong thành ngữ minh hạnh tức là bậc Thánh có đầy đủ trí tuệđức hạnh, tức Phật). 

2. Kiến: Darsana, tri kiến, chánh tri kiến, (trong Bát chánh đạo). 

3. Quán: Vipasjana. Dùng trong hợp từ chỉ quán. Tùy quán anupasyana (tức là trí tuệ quán sát trong bốn niệm xứ), biến tri, pari-jna, và chứng trí abhijna tức phép thần thông

4. Liễu tri: ajna, là trí tuệ dựa vào pháp nhãn mà sơ bộ chứng ngộ
A Nhã là liễu tri, trong số năm nguời đầu tiên dược nghe Phật thuyết pháp tại vườn Nai, gần Bénarès, ông Kiều Trần Như là người đầu tiên được Liễu tri, tức là sơ bộ chứng ngộ bằng trí tuệ. Do vậy mà ông có danh hiệu A Nhã (ajna). Chánh trí samprajàna. Nghĩa đầy đủ là nhận thức đúng đắn, chính xác

5. Quán: mimamsa, có nghĩa “tuệ giải” trong bốn thần túc và trong phép quán nhơn duyên. Ý tứ không khác gì lắm với quán Vipasyana. 

6. Trạch pháp: Dhamma-vicaya, là một giác chi trong bảy giác chi, tức là trí tuệ khéo chọn lựa, nhận biết đúng sai, phải trái

7. Vô ngại giải: cũng gọi là Vô ngại trí, vô ngại biện, tức là trí tuệ thấy hết, biết hết của Phật, không có gì có thể gây trở ngại được Đức Phậttrí tuệ vô ngại đối với Pháp (hết thảy mọi pháp), từ (mọi từ ngữ), nghĩa (mọi ý nghĩa), biện (có khả năng biện thuyết về mọi vấn đề với mọi người), đó là bốn biện giải vô ngại của Phật. 

8. Bồ đề: S.Bodhi (giác, đạo) hay tam Bồ đề (sambodhi) Hán dịch nghĩa chánh giác, là sự thể hội trực tiếp đối với chân lý

Tác dụng của trí tuệ: sách Phật phân biệt có hai loại trí tuệ : 
“Phân biệt trí và Vô phân biệt trí”: 
+ Phân biệt trí
S. savikalpa-jnana là trí tuệ có đối tượng để phân biệt, trí tuệ “đối lập” với đối tượng.

+ Vô phân biệt trí
S. Nirvikalpa-jnana là trí tuệ hòa nhập làm một với đối tượng. Đó là trí tuệ chứng ngộ cao nhứt. 

Với trí tuệ Vô phân biệt, bậc Thánh thấy “sắc tức là khỏng” (sắc tức thị không) thấy các pháp là vô ngã, bậc Thánh chứng ngộ đạo lý sâu sắc, vi diệu đó, cho nên đạt tới trình độ tự tại vô ngại đối với mọi pháp. 

Nhưng bậc Thánh không dừng ở đấy. Để cứu vớt chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, các Ngài mở lòng đại bi để cứu độ chúng sanh. Các Ngài dùng trí tuệ tối cao để phân biệt căn cơ hoàn cảnh của mỗi chúng sinh. Trí tuệ này lại là trí tuệ (có) phân biệt (phân biệt trí), nhưng là một phân biệt trí thành tựu được trên cơ sở vô phân biệt trí, vì vậy mà gọi là phân hiệt hậu đắc trí./. 
 
 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11090)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16466)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11927)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12103)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10240)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13978)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10244)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13712)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16276)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11979)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12989)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12691)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11014)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10955)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11907)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12775)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11075)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12632)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11342)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12530)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10859)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10529)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11204)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12011)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12423)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12564)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13179)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16587)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11962)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12625)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13633)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12188)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant