Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hộ Trì Các Căn

15 Tháng Sáu 201519:10(Xem: 7063)
Hộ Trì Các Căn

HỘ TRÌ CÁC CĂN


Giác Hạnh Hiếu

HỘ TRÌ CÁC CĂNHộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật, có công năng giúp ổn định tâm thức, không để tâm bị kích động chuyển biến chạy theo ngoại cảnh khiến tăng trưởng tham-sân-si. Thông thường, tâm không đứng yên một chỗ; nó hết nhảy theo đối tượng này lại chạy theo đối tượng khác trong thế giới của những ý tưởng và cảm thức biến loạn. Do duyên sự tiếp xúc giữa các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và các trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà tâm bắt đầu hiện khởi và chuyển biến tùy theo đối tượng mà nó cảm thấy thích thú hoặc không thích thú. Những gì nó thích thú thì nó nương theo, bám đuổi và cố giành giật cho bằng được; những gì nó không thích ý thì nó cố lẩn tránh, xua đuổi hoặc rơi vào phản ứng giận dữ. Vì lẽ đó, nó làm cho con người không ngừng quay cuồng trong thế giới của các đối cực, hân hoan tìm kiếm cái thích ý và bực phiền cố tránh cái không hài lòng. Nó đưa đẩy con người trôi dạt từ cực này sang cực khác trong thế giới cố chấp đối đãi, khiến cho con người luôn cảm thấy mệt mỏicăng thẳng, hết vui mừng lại đến buồn rầu, hết sung sướng thì sanh khổ đau. Sở dĩ như vậy là bởi con người không chú ý nhận biết tâm mình và không biết cách phòng hộ các căn.

Đức Phật cho rằng các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) có món ăn riêng biệt của chúng tức các cảnh giới tương ứng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) và chúng thường xuyên tranh giành nhau trong việc tìm kiếm cảnh giới quen thuộc có món ăn thích hợp. Chúng giống như các loài vật hoang dã, nếu cứ để mặc cho chúng tự do chạy theo các cảnh giới thỏa thích của chúng thì thân tâm (con người) sẽ bị chúng lôi kéo, chi phối và sau cùng trở thành nô lệ cho bản năng ham muốn không biết no chán của chúng. Nói cách khác, con người khó tránh khỏi sự mệt mỏiphiền lụy, nếu cứ buông thả các căn, không biết cách phòng hộ và chế ngự các ham muốn thái quá của các giác quan. Đức Phật cho chúng ta các định nghĩa và ảnh dụ minh họa:

“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không hộ trì (các căn)? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, thiên chấp sắc khả ái, ghét bỏ sắc không khả ái, sống với thân niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác, bất thiện pháp ấy khởi lên không được đoạn diệt không có dư tàn… khi tai nghe tiếng… khi mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm xúc… khi ý nhận biết pháp, thiên chấp pháp khả ái, ghét bỏ pháp không khả ái, sống với thân niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi ấy, các ác, bất thiện pháp ấy khởi lên không được đoạn diệt không có dư tàn.

 như, này các Tỷ-kheo, có người bắt được sáu sinh vật, giới loại khác nhau, chỗ tìm món ăn khác nhau, và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con cá sấu, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con chim, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con chó, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con giả-can, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con khỉ, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi cột chúng với những sợi dây vững chắc, người ấy cột một cái gút ở chính giữa và thả chúng đi. Này các Tỷ-kheo, sáu con sinh vật ấy, với giới loại sai khác, với chỗ tìm món ăn sai khác, mỗi con sẽ lôi kéo tùy theo chỗ tìm món ăn và giới loại sai biệt của mình.

Con rắn lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào gò mối”. Con cá sấu lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào trong nước”. Con chim lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ bay lên trời”. Con chó lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào làng”. Con giả-can lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào nghĩa địa”. Con khỉ lôi kéo, nghĩ rằng: “Ta sẽ đi vào rừng”. Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu con sinh vật ấy trở thành mệt mỏi, khi ấy, con sinh vật nào mạnh hơn các sinh vật còn lại, được chúng đi theo, chúng tuân theo, chúng phục tùng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo thân niệm không tu tập, không làm cho sung mãn, con mắt sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Tai sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Mũi sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Lưỡi sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Thân sẽ lôi cuốn nó đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Ý sẽ lôi cuốn nó đối với các pháp khả ái và ghét bỏ đối với các pháp không khả ái.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không hộ trì. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hộ trì?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không thiên chấp các sắc khả ái, không ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với thân niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn… khi tai nghe tiếng… khi mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm xúc… khi ý biết các pháp, không thiên chấp các pháp khả ái, không ghét bỏ các pháp không khả ái, an trú thân niệm, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rõ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.

 như, này các Tỷ-kheo, có người bắt được sáu con sinh vật, giới loại khác nhau, chỗ tìm món ăn khác nhau, và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con cá sấu… Sau khi bắt được con chim… Sau khi bắt được con chó… Sau khi bắt được con giả-can… Sau khi bắt được con khỉ, người ấy cột với sợi dây vững chắc. Sau khi cột chúng với sợi dây vững chắc, người ấy cột vào một cái cột hay cái trụ vững chắc. Rồi, này các Tỷ-kheo, sáu con sinh vật ấy, với giới loại sai khác, với chỗ tìm món ăn sai khác, mỗi con sẽ lôi kéo, tùy theo chỗ tìm món ăn và giới loại sai biệt của mình… Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu con sinh vật ấy trở thành mệt mỏi, chúng sẽ đứng gần bên, ngồi gần bên, nằm gần bên cái cột ấy hay cái trụ ấy. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo thân niệm được tu tập, được làm sung mãn, con mắt không lôi kéo vị ấy theo các sắc khả ái, đối với các sắc không khả ái, không có ghét bỏ… ý không lôi kéo vị ấy theo các pháp khả ái, đối với pháp không khả ái, không có ghét bỏ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hộ trì.

Cái cột hay cái trụ vững chắc, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân niệm. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy học tập như sau: “Chúng ta sẽ tu tập thân niệm, làm cho sung mãn, làm cho như thành cỗ xe, làm cho như thành cơ sở, an trú, tích tập, khéo nỗ lực”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ngươi cần phải học tập”1.

Về phương pháp phòng hộ các căn, Đức Phật nêu rõ:

  đây, v Thánh đ t, khi mt thy sc, không nm gi tướng chung, không nm gi tướng riêng. Nhng nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ng, khiến tham ưu, các ác, bt thin pháp khi lên, v y t chế ng nguyên nhân y, h trì nhãn căn, thc hành s h trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngi hương lưỡi nếm v… thân cm xúc… ý nhn thc các pháp, v y không nm gi tướng chung, không nm gi tướng riêng. Nhng nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ng, khiến tham ưu, các ác, bt thin pháp khi lên, v y chế ng nguyên nhân y, h trì ý căn, thit hành s h trì ý căn. Như vy là v Thánh đ t h trì các căn”.

Theo lời Phật thì phòng hộ các căn trước hết là thực tập tâm chánh niệm, tỉnh giác, không để cho các căn đeo dính vào các trần bằng cách không nắm giữ tướng chung hay tướng riêng đối với mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý nhận thức. Không nắm giữ tướng chung hay tướng riêng nghĩa là không ôm ấp, nắm giữ, không suy nghĩ, tư lường, không đánh giá, phán xét hay phân biệt về sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; chỉ nhận biết sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp như chúng là; không luyến ái đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp khả ái, hấp dẫn, không ghét bỏ đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không khả ái, không hấp dẫn. Không luyến ái cũng không ghét bỏ do nhận thứctính chất duyên sinh, vô thường, khổ đau của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tham (abhijjhà) và ưu (domanassa), (hay còn gọi là tham và sân) không có điều kiện sanh khởitồn tại. Đây chính là kết quả lợi lạc của pháp môn phòng hộ các căn, tức thực nghiệm một nếp sống sáng suốt, thanh thản, an lạc với cái tâm không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh, không còn phản ứng dao động bởi mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý.

Đáng chú ý là có hai khuynh hướng tâm lý mê lầm tai hại thường phát sinh trong khi các căn tiếp xúc với các đối tượng tương ứng. Đó là tham (abhijjhà) hay ưu (domanassa), đi kèm với các pháp bất thiện khác cùng sinh khởi như là hệ quả của chúng. Tham là hiện tượng tâm lý thích thú phát sinh khi các căn gặp gỡ các đối tượng khả ái, thích ý, hấp dẫn. Ưu là tâm lý phiền não sinh khởi khi các căn đối diện với các đối tượng không khả ái, không thích ý, không hấp dẫn. Cả hai hiện tượng tâm lý này được xem là các phản ứng mê lầm, vì chúng có chung gốc rễ là si mê (moha) hay vô minh (avijjà) và vì chúng là các thái độ tâm lý cực đoan dẫn đến khổ đau. Chúng mê lầm vì chúng là các phản ứng cực đoan, không sáng suốt đối với mọi sự vật và hiện tượng giả hợp, không thực có, vốn chuyển biến, thay đổi, không thường hằng, không tồn tại mãi. Chúng dẫn đến khổ đau bởi chúng là các tâm lý vị kỷ, cố chấp, hẹp hòi, không thích chia sẻ, không biết cảm thông, dung dưỡng các thái độ vui buồn, yêu ghét cực đoan, mở lối cho các hành vi bất chính, các hành động sai lầm xấu ác2. Vì vậy, sự thực tập phòng hộ các căn chủ yếu là để đối trịloại bỏ tham và ưu (hay tham và sân), hai trạng huống tâm lý mê lầm có chung gốc rễ là vô minh.

Một ý tứ khác đáng lưu tâm trong phương pháp phòng hộ các căn là cách ứng dụng sự phòng hộ sao cho có hiệu quả đối với từng căn môntrường hợp cụ thể. Ví dụ, trong trường hợp do duyên mắt tiếp xúc với sắc mà tham hoặc ưu dấy khởi và chi phối tâm thức thì lúc bấy giờ cần phải tập trung phòng hộ con mắt bằng các cách thức khác nhau; hoặc nhắm mắt lại, không nhìn sắc ấy nữa, hoặc nhìn sang một đối tượng khác, hoặc tác ý về tính chất vô thường biến hoại của sắc pháp, hoặc nghĩ đến sự nguy hại của tâm tham ái hay ưu phiền đối với sắc pháp ấy… Nhờ ứng dụng sự tu tập phòng hộ theo các cách như vậy mà dần dần sắc pháp không còn tác động, ám ảnhchi phối tâm thức, nghĩa là tham (abhijjhà) và ưu (domanassa) không dấy khởi và tăng trưởng khi mắt thấy sắc. Đối với các căn môn khác cũng thực tập theo cách tương tự. Đây hẳn là các cách thức đối trị tham và ưu hết sức căn bản cho từng căn tánhtâm thức riêng biệt và chúng không có gì là tiêu cực hay tích cực trong cách ứng dụng. Người đau bệnh gì thì phải biết tìm vị thuốc hiệu nghiệm nhất để mà chữa trị.

Có một mẩu đối thoại ngắn giữa Đức Phật và vị thị giả Ànanda ngụ ý cách thức phòng hộ các căn được chép trongKinh Trường Bộ mà một vài người nhầm tưởng cho là Đức Thế Tôn có ý xem nhẹ nữ giới. Tôn giả Ànanda bạch hỏi Đức Phật3:

– Bạch Thế Tôn, chúng con phải cư xử với phái nữ như thế nào?
– Này Ànanda, chớ có thấy họ.
 Bạch Thế Tônnếu phải thấy họ, thời phải như thế nào?
– Này Ànanda, chớ có nói chuyện với họ.
– Bạch Thế Tôn, nếu phải nói chuyện với họ, thời phải như thế nào?
– Này Ànanda, phải an trú chánh niệm.

Bậc giác ngộthiên vị nam nhân và xem nhẹ nữ giới hay không, chỉ có Ngài mới biết rõ; tuy nhiên, với những ai tỉnh táo nhận ra sự nguy hiểm (àdìnava) tiềm tàng trong vị ngọt (assàda) của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và mong muốn tìm ra con đường thoát ly (nissarana) thì mẩu đối thoại trên hiện rõ là những lời dạy hết sức căn bản cho các bước tu tập phòng hộ căn môn, với cái đích cuối cùngđối diện với các pháp (tốt hay xấu, khả ái hay không khả ái) một cách thanh thản, tỉnh táo, có chánh niệm. Bậc Đạo sư giác ngộ hiểu rõ nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau và quan tâm chỉ bày cách thức giúp cho mọi người từng bước đi ra khỏi khổ đau, tìm thấy hạnh phúc an lạc thực sự. „

 

Chú thích:

  1. Kinh Sáu sinh vật, Tương Ưng Bộ.
  2. Đại kinh Khổ uẩn, Trung Bộ.
  3. Kinh Đại bát Niết-bàn, Trường Bộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21744)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23296)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27500)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26567)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29315)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20185)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20906)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29821)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22132)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24379)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29253)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32127)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21058)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21570)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28059)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29172)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20613)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28281)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23649)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33173)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31838)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39618)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19372)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26375)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24815)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21752)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29127)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22553)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20468)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23512)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21233)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35309)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24543)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31334)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26225)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31232)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22926)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30052)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21574)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20244)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20752)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28793)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22544)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29523)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35131)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28818)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37904)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21333)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27027)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20848)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34321)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22468)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25123)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 22953)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant