Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Dược Sư Giải Nghĩa

27 Tháng Tám 201512:32(Xem: 28340)
Kinh Dược Sư Giải Nghĩa
KINH DƯỢC SƯ GIẢI NGHĨA

 

Toàn Không

Kinh Dược Sư Giải Nghĩa

 

LỜI MỞ ĐẦU

 

     Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi: "Hay thay! Hay thay! Mạn Thù Sư Lợi! Ông lấy lòng đại bi yêu cầu Ta nói những bản nguyện công đức của chư Phật là vì muốn cho chúng hữu tình khỏi bị nghiệp chướng ràng buộc, lợi ích an vui, trong đời tượng pháp về sau; nay ông nên lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói".

     Đức Phật tuy bảo Bồ Tátlắng nghe” và “suy nghĩ kỹ”, nhưng thực ra Ngài bảo tất cả Phật tử khi đọc Kinh này phải chú ý đọc rồi suy nghĩ cho kỹ; vì Bồ tát Văn Thù là bậc trí tuệ đẳng giác, đâu còn những nghiệp chướng ràng buộc, đâu còn những khổ nạn như chúng ta nữa, mà chính chúng ta là những người Đức Phật nhắm giáo hóa.

      Bởi vậy, chúng tôi cố gắng tìm hiểu ý của Phật muốn chỉ để giải thích và viết ra, hy vọng rằng những sự giải nghĩa của chúng tôi được đầy đủ ý mà Đức Phật muốn nói, và người đọc ghi nhớ để thực hành đúng nghĩa Đức Phật dạy, thì kết qủa sẽ được tốt đẹp.

     Để sự giải nghĩa được rõ ràng mạch lạc, và sự theo dõi của độc giả được dễ dàng, chúng tôi xin chia Kinh này ra làm 37 đoạn, mỗi đoạn là một Kinh Văn có tên theo nội dung của đoạn Kinh. Sau chót, mặc dù cố gắng trong việc giải thích và trình bày, nhưng còn có khiếm khuyết, xin qúy vị Thiện Tri Thức chỉ cho, tác giả xin chân thành đa tạ vô cùng.

GIẢI NGHĨA ĐỀ KINH:

 Để dễ hiểu, chúng ta phân biệt dùng chữ nghiêng đậm là lời Kinh, chữ thẳng thường để giải thích, chúng ta cùng theo dõi sau đây:

ĐỀ KINH:

 

Kinh (1) Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (2) Bản Nguyện (3) Công Đức (4)

GIẢI NGHĨA:

(1) Kinh: Kinh là các đường chỉ dọc của vải làm chuẩn cho tấm vải, tức là pháp không đổi thay, luôn luôn nó như vậy; Phật nay giảng như thế này, Phật quá khứ cũng đã giảng như thế, Phật trong tương lai cũng giảng như vậy, không bao giờ thay đổi gọi là Kinh.

 

(2) Như Lai:

NhưPháp Tánh tức Thật Tướng, là không hai, không khác, không biến, không động; Chân Diện Mục của vạn pháp đều đồng một tướng, cho nên gọi là “Như”.

Lai là căn nguyên, có nghĩa lúc ban đầu (như từ vô thủy đến nay) chưa có vật gì. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: Tự Tính thanh tịnh có nghĩa là Tự Tính bản lai trong sạch, tức là Tự Tính chân như. Kinh Pháp Hoa nói: Các pháp từ bản lai, tự tướng thường vắng lặng.

Như Lai là một trong mười danh hiệu của tất cả Chư Phật, Như Lai nghĩa là chẳng phải từ đâu đến, mà cũng chẳng đi về đâu, biểu tượng cho Pháp Thân thường trú của Phật. Khi Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài thường dùng danh từ Như Lai để xưng cho mình khi thuyết pháp, đó cũng là một phong cách biểu lộ sự trung thực bản lai của Ngài vậy.

 

(3) Bản Nguyện: Là các lời phát nguyện trong khi đang tu trước khi thành Phật.

 

(4) Công Đức: Chữ “Công” là việc chung, không có tư tâm, chỉ những gì được tạo lập ở bên ngoài như bố thí cúng dường, xây chùa đắp tượng Phật. Chữ “Đức” là điều thiện, là đạo lý làm người, chỉ về sự tình ở trong nội tâm như tu hành, giữ giới; ngoài không dối người trong không dối mình, ngoài biết thẹn (tàm) với người, trong biết hổ (qúi) với mình. Công Đức là có công laođạo đức đối với người, là đạo đức đối với xã hội.

 

     Đề Kinh này nói đến những thệ nguyện về các công đức cứu độ chúng sinh của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Phật khi Ngài còn đang tu hạnh Bồ Tát trước khi thành Phật. Đây là một hạnh nguyện rộng lớn mà người Phật tử cần nghiên cứu học hỏihành trì để tiến tới giải thoát hầu đền ơn Phật hằng mong mỏi tất cả chúng sinh giải quyết cho xong vấn đề sinh tử khổ ải trầm luân.

 

GIẢI NGHĨA KINH VĂN:

 

KINH VĂN 1:

NHÂN DUYÊN NÓI KINH

 

Tôi nghe như vầy (1): Một thuở nọ, Đức Bạc Già Phạm (2) đi du hóa (3) các nước, đến thành Quảng Nghiêm. dừng nghĩ dưới cây Âm Nhạc cùng với tám ngàn vị Đại Tỳ Kheo (4), ba vạn sáu ngàn vị Đại Bồ Tát (5), các hàng Quốc Vương, Đại Thần, Bà La Môn (6), các hàng Cư Sĩ, Thiên Long Bát Bộ (7) cùng nhân, phi nhân, cả thảy đại chúng nhiều vô số, đồng vây quanh Phật cung kính thỉnh Ngài thuyết pháp.

 

GIẢI NGHĨA:

(1) Tôi nghe như vầy: Là lời của Tôn giả A NanThị Giả của Đức Phật đã nói lại những lời Phật nói chứ không phải là lời của Tôn Giả để mọi người vững lòng tin tưởng.

 

(2) Bạc Già Phạm: Do chữ Sanskrit: Bhagavat, hoặc Pàli: Bhagavà hay Bhagavant. Là một trong mười hiệu của tất cả Chư Phật, Bạc Già Phạm còn gọi là Bà già bà, Bà ga phạ đế; dịch ý là Hữu đức, Năng phá, Thế tôn, Tôn quí, tức hàm ý là người có đức lớn được đời tôn trọng. Theo Phật Địa Kinh Luận thì Bạc Già Phạm có đủ sáu nghĩa là: Tự tại, xí thịnh (công đức viên mãn tốt đẹp rực rỡ), trang nghiêm (ngay thẳng, chính trực, quy củ), danh xưng (đầy đủ công đức, hạnh nguyện, từ bi), cát tường (tốt lành) và tôn quí.

 

(3) Du hóa: du hànhgiáo hóa chúng sinh.

 

(4) Đại Tỳ Kheo: Là chỉ các bậc Tỳ Kheo đã xuất gia từ trên hai mươi ba mươi năm, gọi bằng chữ “đại” vì họ là những bậc Tỳ kheo lớn, đầy đủ đức hạnh, trí huệ và phẩm cách.

Tỳ Kheo: Là tiếng Phạn, có ba nghĩa: khất sĩ, bố ma, phá ác như sau:

1. Khất Sĩ: Người đi đến từng nhà để xin thức ăn, nhưng khất sĩ thì không phải là hạng ăn mày bình thường, cho đồ ngon hay không ngon, cho nhiều hay ít, họ cũng không quan tâm; Tỳ Kheo đi khất thực thì không nói gì cả, ai bố thí thứ gì thì mang đi, không bố thí trong tâm khôngphiền não.

Trên đường đi khất thực trong yên lặng, vị Tỳ Kheo mắt không nhìn ngang nhìn ngược, mà giữ cặp mắt nhìn xuống đường để đừng giẫm đạp chết chúng sinh nhỏ bé có thể đang bò trên mặt đường; tâm ý chỉ chú ý chính niệm trong việc hành trì như niệm Phật, trì Chú, quán sát tâm, tham thiền, v.v…. Vị Tỳ Kheo luôn luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh uy nghi theo đúng pháp, phàm thứ gì không đúng với lễ nghi thì mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói, thân tâm không vọng động.

2. Bố Ma: Tỳ Kheo luôn luôn giữ vẻ đoan nghiêm thanh tịnh nên Thiên Ma trông thấy thì kinh hãi, các loại Tà Ma Quỷ Quái thì phải lánh xa; bởi chính bao giờ cũng thắng tà.

3. Phá Ác: Người thường rất khó phá trừ các tập khí xấu, không giống như các Tỳ Kheo là những người chuyên trị việc phá trừ tập khí, chuyên sửa các lỗi lầm của mình, cải sửa điều ác thành điều thiện, do đó họ được gọi là phá ác.

 

(5) Bồ Tát: Là chỉ một vị Thánh trong Phật Giáo Bắc Truyền, nói cho đủ thì đó là « Bồ- Đề Tát- Đỏa », gọi là Bodhisattva, dịch nghĩa là «Giác Hữu Tình»; chữ hữu tình là có khí huyết, là chỉ chúng sanh. Bồ Tát là một chúng sanh đã giác ngộ về “chỉ làm việc lành không làm việc ác” nên trong hành động không còn sự vô minh nữa; Bồ Tát là một Thánh nhân trong bốn Pháp Giới Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật).

 

(6) Bà-La-Môn: Bà-La-Môn là một giai cấp được tôn trong ở Ấn Độ trong bốn giai cấp. Bà-La-Môn theo pháp tu khổ hạnh, nhưng họ cầu sinh về cõi trời, tâm tham hãy còn, tâm sân chưa hết, tâm si cũng chưa hàng phục được.

 

(7) Thiên Long Bát Bộ: Tám bộ chúng đều hộ trì cho đạo tràng của Phật là:

1. Thiên: Deva: Thiện, hưởng phúc vi diệu, chư thiên các tầng trờì Dục và Sắc giới đã từng phát nguyện ủng hộ đạo tràng của Phật.

2. Long: Na-Dà: Rồng là loại linh vật, họ tinh tấn tu hành cho có thần thông biến hóa nhưng lại làm nhiều điều ác nên có thân rồng; Rồng giữ địa luân và các cung điện cõi Trời, làm mưa v.v..., và trong số Rồng có bốn loại sinh: noãn, thai, hóa, thấp sinh khác nhau.

3. Dạ Xoa: Yaksa: Yểm-Quỷ giữ các cửa thành cõi Đạo-Lợi, các quỷ chạy rất mau, có loại chạy trên không, gọi là không hành, có loại chạy dưới đất gọi là địa hành, cũng có loại đi dưới nước gọi là thủy hành; Dạ xoa chạy nhanh như biến, chỉ cần một niệm là đi nghìn dặm, chúng có rất nhiều chủng loại khác nhau.

4. Càn Thát Bà: Grandhava: Thần Nhạc, Thần hầu Vua  Đế-Thích để ca và tấu nhạc, chơi âm nhạc hay vô cùng, mỗi khi chúng cử nhạc thì Chư Thiên đều chú ý lắng nghe đến say mê. Chúng có một nhược điểm là ưa ngửi mùi hương, Vua trời Đế-Thích có một thứ hương để chiêu dụ Càn-Thát-Bà, có mùi hương thì Càn-Thát-Bà liền tới, rồi ở đấy nhẩy múa, ca hát, tấu nhạc, nên Càn-Thát-Bà còn gọi là Thần ngửi mùi hương.

5. A Tu La: A Sura: Phi Thiên, Thần, A-Tu-La là loài hay nổi giận còn được gọi là loại phi Thiên, không phải là dân thuộc Thiên giới, không có quyền hành  như chư Thiên; tuy vậy, A-Tu-La cũng được xếp vào hàng chúng sanh của cõi lành, chúng thường giao tranh với các Thiên tướng, Thiên binh.

6. Ca Lâu La: Garuda: Chim Súy-Điểu, Chim Cánh-Vàng, có thể biến thành lớn, thành nhỏ, khi ẩn khi hiện, hai cánh soè ra đến 360,000 dặm (theo quyển Nhị-Khóa Hiệp-Giải trang 278). Có 4 loại chim bằng noãn, thai, hóa, thấp sinh,

7. Khẩn Na La: Kini Nara: Nghi Nhân (hay nghi), Nhân Phi Nhân, giống người mà có một cái sừng trên đầu, cũng là Thần đánh nhạc cho Vua Trời Đế-Thích,

8. Ma Hầu La Dà: Mahoraga: Đại Phúc-Hành, đầu rắn mình người, Thần Rắn, Địa Long Thần, Đại Mãng Thần.

 

Ghi chú: Bát bộ kể trên, nhục nhãn loài người không thể trông thấy. Hai bộ Thiên và Long, thần nghiệm khá nhất là 2 loại đứng đầu trong tám bộ, nên gọi là Thiên Long Bát Bộ. Thiên Long Bát Bộ thường hầu Phật mỗi khi Phật thuyết pháp. Nói chung Thiên Long Tám Bộ đều xuất thân từ các hạng từ tốt như chư Thiên Thần đến Ma Quỷ, đều cải tà quy chính, theo Phật, trở thành một giới bảo hộ Phật pháp.

 

     Chúng ta thấy Kinh Văn 1 ở đây nói những sự thành tựu về: sự tin tưởng (Tín), sự nghe thấy (Văn), thời gian (Thời), vị thuyết pháp giảng Kinh (Chủ thể) là Đức Phật. Địa điểm nơi giảng Kinh tại gốc cây Âm nhạc thuộc thành Quảng nghiêm (Xứ thành tựu), và có vô số chúng tham dự nghe thuyết pháp (Chúng thành tựu); tất cả biểu tượng đầy đủ nhân duyên cho buổi nói Kinh.

 

KINH VĂN 2:    (Còn Tiếp)

Ý kiến bạn đọc
20 Tháng Hai 201811:09
Khách
A di da phat
20 Tháng Chín 201703:50
Khách
Tôi muốn xem toàn bộ kinh dược sư
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16648)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13253)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12713)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13551)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11725)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14252)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17748)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22607)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13454)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15536)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16064)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11354)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15673)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13154)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21923)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16157)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19118)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24795)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17636)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17082)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18569)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18823)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14384)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23075)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28502)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15171)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13674)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16417)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143478)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16304)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17397)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47381)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39094)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15778)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23080)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16729)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14283)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13872)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17203)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14341)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16900)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27927)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50146)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38445)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28514)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52136)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35803)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32827)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50739)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63632)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49648)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56963)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47477)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39369)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38418)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36544)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32188)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46650)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 40017)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant