Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chỉ Giáo Tinh Yếu Thánh Pháp Để Tự Giải Thoát Vào Thời Điểm Chết Và Trong Trung Hữu

24 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 26017)
Chỉ Giáo Tinh Yếu Thánh Pháp Để Tự Giải Thoát Vào Thời Điểm Chết Và Trong Trung Hữu

KIM-CƯƠNG ĐẠO-SƯ LIÊN HOA SINH

CHỈ GIÁO TINH YẾU THÁNH PHÁP
ĐỂ TỰ GIẢI THOÁT VÀO THỜI ĐIỂM CHẾT VÀ TRONG TRUNG HỮU
Bản Tạng Văn ghi bởi YESHE TSOGYAL (757-817)
[Công chúa Tây Tạng - Đại đệ tử của Đạo Sư Liên Hoa Sinh]
Bản Việt (dịch từ bản Anh): Đặng Hữu Phúc

KÍNH LỄ ĐẠO-SƯ

blankBà Tsogyal tước hiệu Kharchen đã theo học với Đức Phật Ứng Hoá Thân Liên Hoa Sinh đến từ xứ Oddiyama, từ năm tám tuổi, đi theo Ngài như bóng theo hình.

Khi Đạo Sư sắp rời Tây Tạng để về xứ la sát, tôi, Bà Kharchen, đã dâng một mandala vàng và lam ngọc và chuyển một bánh xe cung thỉnh Đạo Sư và Hội Thượng Phật, khẩn cầu : Thưa Đại Đạo Sư ! Ngài sắp rời đây để về thuần thục các la sát. Tôi bị bỏ lại đây ở Tây Tạng. Mặc dầu tôi đã theo học Ngài suốt thời gian dài, thưa Ngài, người đàn bà già này vẫn không tin chắc vào năng lực của mình vào lúc chết. Thế nên tôi tha thiết xin Ngài từ bi ban cho tôi một chỉ giáo đúc kết tất cả các giáo pháp thành một giáo pháp vắn tắt và dễ thiền quán.

Đại Đạo Sư phúc đáp : Hành giả có tâm tín thành và đức hạnh, hãy lắng nghe tôi.

Mặc dầu có nhiều điểm tinh yếu sâu sắc của thân, hãy an trú không dính mắc gì hết và thư giãn sao cho thư thái, thanh thản. Tất cả đều gồm đủ trong chính trạng thái đó.

Mặc dầu có nhiều điểm tinh yếu của ngữ tỉ dụ như kiểm soát nhịp thở và tụng đọc mantra, hãy dừng chuyện nói năng và hãy nương nhờ như một người câm. Tất cả đều gồm đủ trong chính trạng thái đó.

Mặc dầu có nhiều điểm tinh yếu của tâm, tỉ dụ như tịnh chỉ, thư giãn, ảnh tướng, hoà nhập và quán chiếu tự nội, tất cả gồm đủ trong chính sự vụ hãy để tâm an trú vào tự tính của nó, không dính mắc và thư thái, không vọng tưởng.

Tâm không giữ được vắng lặngtrạng thái đó. Nếu một ai tự hỏi, tâm là cái trống rỗng? giống như sóng nắng trong cái sức nóng của mặt trời, nó vẫn lấp lánh và chớp loáng về phía trước. Nhưng nếu một ai tự hỏi, tâm là một cái gì đó? Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.

Nhận biết tâm như thế, trở thành chắc chắn về tâm, đó là kiến (=cái thấy). Để duy trì không bị tán loạn trong trạng thái tịnh chỉ, không vọng niệm hoặc chấp thủ, đó là thiền. Ở trong trạng thái đó, không bị dính mắc vào chấp thủ hoặc tham luyến, chấp nhận hoặc đối kháng, mong cầu hoặc sợ hãi, đối với bất cứ một trong những kinh-quá của sáu thức, đó là hành.

Bất cứ nghi hoặc hay do dự nào xảy ra, hãy cung kính thỉnh vấn bản sư của bạn. Hãy đừng gửi lòng ở các nơi cư trú của người sống bình thường ; hãy thiền quán trong hạnh độc cư cô tịch. Hãy buông bỏ sự dính mắc của bạn đối với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời này, và hãy thiền quán. Như thế đó, mặc dầu thân bạn vẫn ở trong hình tướng con người, tâm bạn thì bình- đẳng với tâm chư Phật.

Vào thời điểm chết, bạn nên thiền quán như sau. Vào lúc địa đại hoà nhập (= tan biến) vào trong thuỷ đại, thân thể trở nên nặng nề và thân không thể tự nương nhờ thân. Vào lúc thuỷ đại hoà nhập vào trong hoả đại, miệng và mũi khô khan, ngưng nói bí lời. Vào lúc hoả đại hoà nhập vào trong phong đại, thân nhiệt biến mất. Vào lúc phong đại hoà nhập vào trong thức đại, bạn chỉ có thể thở ra khò khè và hít vào nấc nghẹn.

Vào lúc đó, cái cảm giác đương bị đè bởi một ngọn núi rất lớn, đương bị sập bẫy trong bóng tối, đương bị buông rơi vào vô tận của hư không xảy ra. Tất cả những kinh – quá này có kèm theo những âm thanh sấm vang và nghe rõ trong tâm. Toàn thể bầu trời sẽ tươi sáng rực rỡ như một tấm gấm trải rộng.

Nhiều hơn thế nữa, những hình tướng tự nhiên của tâm bạn, những vị Phật bảo hộ - tướng từ bi, tướng uy mãnh, bán uy mãnh - và những vị Phật bảo hộ có nhiều đầu khác biệt, xuất hiện đầy bầu trời với bán cầu quang sắc cầu vồng. Vung múa các vũ khí, các vị này sẽ thốt những lời : “Đánh ! Đánh !” “Giết ! Giết !” “Hung ! Hung !” “Phat ! Phat !” [ tiếng Tây Tạng ] và các âm thanh uy mãnh khác. Thêm vào đó, sẽ có ánh sáng như một trăm nghìn mặt trời chiếu sáng cùng một lúc.

Vào lúc này, Phật bảo hộ cùng sinh của bạn sẽ nhắc nhở lưu tâm bạn về tính giác (= viên minh), đang nói, Đừng bị tán loạn ! Đừng bị tán loạn ! Ma chướng cùng sinh của bạn sẽ loạn động tất cả các Kinh - quá của bạn, làm cho các Kinh – quá đều sụp đổ, và phát ra những âm thanh chói tai và uy mãnh và làm mê mờ bạn.

Ở điểm này, hãy tuệ tri điều này : Cái cảm giác đương bị đè ép xuống thì không phải là đương bị đè ép xuống bởi một ngọn núi. Đó là chính các đại của bạn đang hoà nhập. Hãy đừng sợ hãi chuyện đó ! Cái cảm giác đương bị sập bẫy trong bóng tối thì không phải là một bóng tối. Đó là năm quan năng của bạn đang hoà nhập ! Cái cảm giác đương bị buông rơi vào trong vô tận của hư không thì không phải là đương bị buông rơi. Đó là tâm của bạn không có cái gì để nương nhờ bởi thân và tâm của bạn đã ly biệt và hơi thở của bạn đã ngừng lại.

Tất cả các kinh-quá của quang sắc cầu vồng là những tự hoá-hiện của tâm bạn.Tất cả các hình tướng từ bi và uy mãnh [ uy mãnh = chuyển biến hạnh Tử-ma] là các hình tướng tự nhiên của tâm bạn. Tất cả các âm thanhâm thanh của chính bạn. Tất cả ánh sáng là ánh sáng của chính bạn. Hãy đừng nghi hoặc gì về điều đó. Nếu bạn cứ cảm thấy nghi hoặc, bạn sẽ bị ném vào trong sinh tử luân chuyển. Quyết định sáng tỏ hơn để thấy chỉ là chuyện tự diễn-hiện, nếu bạn nương nhờ an trú vào tính viên minh trong chân không diệu hữu quang minh biến chiếu, lúc đó đơn thuần trong chính chân không diệu hữu quang minh biến chiếu đó bạn sẽ chứng đạt ba thânpháp thân, báo thân, ứng hoá thân – và trở thành giác ngộ. Ngay lúc đó nếu bạn có bị ném vào trong sinh tử luân chuyển, bạn cũng sẽ không đi vào đó.

Vị Phật bảo hộ cùng sinh của bạn là hiện hữu của bạn để duy trì tâm bạn với chánh niệm không bị tán loạn. Từ thời điểm này, điều rất quan trọng là ở trạng thái không mong cầu và sợ hãi gì cả, không chấp và thủ cái gì cả, đối với các đối tượng của những quan năng của sáu thức cũng như đối với những dẫn dụ mê đắm, hạnh phúcsầu muộn. Và từ bây giờ trở đi, nếu bạn đã đạt tịnh – chỉ an – định, bạn sẽ có thể bắt đầu có khả năng đảm lĩnh bản tính ở trong trung hữutrở thành giác ngộ. Thế nên điểm tối yếu cho sinh mệnh ( của tuệ mệnh ) là duy trì thiền quán không tán loạn từ chính thời điểm này.

Ma chướng cùng sinh là tập khí hiện tại đưa đến vô – minh, nghi hoặcdo dự của bạn. Vào lúc đó – lúc ở tử địa – bất cứ hiện tượng dễ sợ nào xuất hiện tỉ dụ những âm thanh, những màu sắc và những ánh sáng, hãy đừng bị mê đắm dẫn dụ, hãy đừng nghi hoặc và hãy đừng sợ hãi. Nếu bạn bị rơi vào nghi hoặc dù chỉ một thời điểm, bạn sẽ lang thang trong cõi sinh tử luân chuyển, vì thế nên hãy đạt được tịnh chỉ an định hoàn toàn [ = không thay đổi và không bị chấm dứt bất thình lình ]

Ở điểm này, những lối dẫn vào tử cung (=cửa ngõ tái sinh) hiện ra như những cung điện cõi trời. Hãy đừng bị tham luyến đối với chúng. Hãy tin chắc chắn vào điều nhận biết sáng tỏ thấu suốt đó. Hãy tự tại không còn mong cầu và sợ hãi ! Tôi quả quyết chẳng chút nghi hoặc nào là lúc đó bạn sẽ trở thành giác ngộ mà không còn một tái sinh nào thêm nữa.

Vào thời điểm đó, không phải là một ai đó được một vị Phật cứu độ. Tính giác viên minh trong sáng thấu suốt của chính bạn là bản giác cứu độ bạn. Đó không phải là một ai đó bị bách hại bởi các địa ngục. Chấp thủ được tự tịnh – hoá, sợ hãi về sinh tử luân chuyển và mong cầu về niết bàn được cắt đứt từ gốc rễ.

Trở thành giác ngộ có thể được so sánh như nước đã sạch hết các chất cặn bã, vàng lọc sạch các chất tạp bẩn, hoặc bầu trời trong sáng thấu suốt không có những đám mây.

Đạt được pháp thân giống như hư – không cho lợi ích chính mình, bạn sẽ thành tựu lợi ích cho tất cả hữu tình vô tận xứ như hư – không vô tận xứ. Đạt đến báo thânứng hoá thân cho lợi ích của tất cả hữu tình, bạn sẽ làm lợi ích cho tất cả hữu tình vô tận xứ như tâm bạn lan toả vạn hữu vô tận xứ.

Nếu chỉ giáo này được trao ba thời – quá khứ, hiện tại, vị lai – tới ngay chính một người trọng tội tỉ dụ một người đã giết cha hoặc mẹ của chính họ, người đó sẽ không rơi vào sinh tử luân chuyển ngay cả nếu bị ném vào đó. Chẳng có chuyện gì nghi hoặc về chuyện trở thành giác ngộ.

Ngay cả nếu bạn có nhiều giáo pháp thâm sâu khác, mà không có một chỉ giáo như chỉ giáo này, bạn sẽ vẫn còn ở rất xa với giác ngộ. Do vì bạn không biết nơi nào bạn có thể lang thang kế tiếp, hãy thiền quán pháp này với sự bền lòng dù có gặp khó khăn.

Bạn nên trao giáo pháp trực chỉ này tới các người thụ pháp, những người có đại tín thành, tinh tấn dũng mãnh, và thông tuệ, những người luôn luôn nhớ đến thầy của họ, những người luôn luôn tín nhiệm vào các giáo pháp trực chỉ, những người thân tâm nỗ lực trong thực hành, những người có tâm an – tịnh, và có khả năng buông bỏ các mối quan tâm đối với thế giới này. Hãy trao cho họ trực chỉ này với ấn uỷ - nhiệm của đạo sư, với ấn ẩn – mật của Phật thiền và ấn uỷ - nhiệm của dakini.

Mặc dầu tôi, Liên Hoa Sinh, đã theo học nhiều vị đạo sư qua một ngàn tám trăm năm, đã thỉnh cầu những trực chỉ, đã nhận nhiều giáo pháp, đã học và đã dạy, đã thiền địnhthiền quán, tôi đã không tìm thấy một giáo pháp nào thâm sâu hơn giáo pháp này.

Tôi sắp đi thuần thục các la sát. Bạn nên thiền quán như giáo pháp này chỉ dạy. Thưa hữu tình mẫu thân, bạn sẽ trở thành giác ngộ nơi cõi thánh. Thế nên hãy bền lòng dù có gặp khó khăn trong trực chỉ này.

Ban trực chỉ xong, Guru Rinpoche ngự trên những tia ánh sáng mặt trờilên đường đến xứ la sát. Theo sau đó, Bà Tsogyal đã đạt giải thoát. Bà đã đảm nhiệm giáo pháp này bằng cách viết xuống thành bản văn và giấu như một bảo tạng thâm sâu. Bà đã làm với mục đích : Trong vị lai, nó sẽ được trao cho Guru Dorje Lingpa. Lúc đó nó sẽ làm lợi ích cho nhiều hữu tình.

Đây là toàn thể Chỉ giáo Tinh yếu Thánh pháp phúc đáp đối với các thỉnh vấn về tự giải thoát vào thời điểm chết và trong trung hữu.

GIỚI NGUYỆN, ẤN, ẤN, ẤN.

----------------------------------------------------------------------------------------

CHÚ THÍCH –

1.Từ ngữ Việt Anh

Liên hoa sinh : Padma Sambhava, Padmakara.

Kim cương đạo sư : Vajra master.

Ứng hoá thân Phật: nirmana kaya.

La sát : Rakshas.

Ảnh tướng : Projection.

Hoà nhập : dissolving.

Quán chiếu tự nội : Focusing inward.

Bản chất của tâm : Nature of mind.

Không tán loạn : undistracted.

Trải nghiệm, kinh nghiệm, kinh-quá: experience.

Tính giác, viên minh, giác chiếu : awareness. Skt. vidya

Những vị Phật bảo hộ tướng từ bi : the peaceful deities. (Tướng uy mãnh : fierce).

Phật bảo hộ cùng sinh : innate deity.

Ma chướng cùng sinh : innate demon.

Thân trung hữu: the between; intermediate state; Skt. antarabhava; Tạng ngữ: bardo

Chỉ giáo tinh yếu thánh pháp để tự giải thoát vào thời điểm chết và trong trung hữu : the Sacred Refined Essence Instruction on self-liberation at the moment of death and in the bardo.

Tướng phẫn nộ : wrathful. Nếu dịch sang Anh ngữ là ‘fierce deity’ (Phật bảo hộ tướng uy mãnh), thì tốt hơn là dịch thành ‘wrathful deity’, là vì vị Phật biến hoá các hạnh dẫn đến tử ma (→ sự chết → sự sinh tử luân chuyển) qua tướng uy mãnh.

-------------------------------------------------------------------------------------------

2. Kim Cương Đạo Sư Liên Hoa Sinh

Từ xứ Uddiyana ( = Oddiyana ) thuộc Ấn Độ ( Ngày nay là Swat Valley gần Islabamad thủ đô Pakistan ), Kim Cương Đạo Sư Liên Hoa Sinh được Hoàng đế Tây Tạng Trisong Detsen mời đến truyền bá Phật giáo tại Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám.

Ngài đã biến hoá tất cả các vị thần địa phương và các ma lực chướng ngại trở thành các vị hộ pháp của Phật giáo.

Ngài được dân Tây Tạng tôn kínhỨng Hoá Thân Phật, Đệ Nhị Thích Ca Mâu Ni Phật.

Đức Phật Thích Ca đã tuyên bố : “Tám năm sau khi tôi nhập niết bàn, tôi sẽ tái hiện tại xứ Uddiyana mang tên là Liên Hoa Sinh. Tôi sẽ trở thành Kim Cương thượng sư của giáo pháp Chân ngôn ẩn mật.” – “Eight years after I pass into nirvana, I will reappear in the country of Uddiyana bearing the name Padma Sambhava. I will become the lord of the teachings of Secret Mantra.”

(Trích dẫn từ : the lotus-born : life story of Padmasambhava / composed by Yeshe Tsogyal. Copyright 1993 by E.H Schmidt).

Các tiểu truyện về Ngài có vài điểm sai biệt : Ngài sinh từ một đoá hoa sen khổng lồ nên có tên là Liên Hoa Sinh, Ngài là hoàng tử xứ Uddiyana, Ngài là nghĩa tử của Hoàng đế xứ Uddiyana.

Ngài để lại nhiều giáo pháp, trong đó có quyển “Quyển sách cao quý về tự giải thoát qua sự hiểu biết trong trung hữu” (The great Book of Natural Liberation through understanding in the between). Các bản dịch Anh ngữ thường đặt tên là : “ The Tibetan Book of The Dead.” (Tử thư Tây Tạng).

Đạo Sư Liên Hoa Sinh rời xứ Tây Tạng để về thuần thục các la sát.

Kinh Lăng già do Đức Phật Thích Ca giảng mở đầu với chương một “Chúa Thành Lăng Già xin được chỉ dạy”. Chúa Thành Lăng Già là Ravana, chúa của loài la sát. “Chúa Thành Lăng Già chợt tỉnh, ông cảm thấy một sự đột biến trong tâm, hiểu rằng thế giới chỉ là tâm thức của chính mình”. (Kinh Lăng già, bản dịch Anh của D.T. Suzuki, bản dịch Việt – Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn )

---------------------------------------------------------------------------------

3. Giải thoát tự nhiên (Natural liberation),

thuật ngữ của tông Nyingma, Tử Thư Tây Tạng và bản văn này, là tiến trình tự nhiên của sự nhận biết sáng tỏ thực tính của đối tượng, không đến từ bất cứ hình tướng viễn ly hoặc hoá giải. (a natural process of recognition of the actual nature of the object, which is free from any form of renunciation or antidote).

. Tịnh hoá tự nhiên (Natural purity) là sự tịnh hoá an định do tịch diệt tự nhiên (tịch diệt : chấm dứtvắng lặng) (the quiescent naturally abiding purity) của các uẩn thân – tâm, các tâm sở, các tiến trình của sắc thọ, tưởng, hành, thức như được tượng trưng bởi 42 vị Phật bảo hộ tướng từ bi của mandala.

Tịnh hoá tự nhiên chỉ rõ có sự hiện hữu của hội thượng Phật tướng từ bi ở trong bản giác (continuum of the ground).

-------------------------------------------------------------------------------------------

4. [ Viết theo “Luminous Mind-The way of the Buddha’ của Kalu Rinpoche,Wisdom xuất bản 1997]

 . Tâm thanh tịnh (pure mind : tịnh tâm, tịnh quang tâm, thật tâm, chân tâm, vô tâm) có ba tính đức bản chất căn bản, kết hợpđồng thời : chân không diệu viên , (openness, emptiness ; open for manifestations: tính không; chân không diệu viênchân không : rỗng thông vì lìa tướng ; diệu viên : mở ra các khả hữu cho biến hiện -- gặp sắc thì sắc trần biến hiện , gặp tiếng thì thanh trần biến hiện,v.v. ; Sanskrit : sunyata) ; diệu minh thường trụ (luminosity, lucidity, clarity;Skt.: prabhasvara; nhận biết tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp thường trụ; quang minh viên chiếu, thường tịch quang), diệu minh biện biệt vô ngại ( unimpededness, unobstructed intelligence, sensitivity: nhận biết sáng tỏ phân biệt rành rẽ không bị ngăn ngại; liễu tri biện biệt vô ngại ).

Tâm thanh tịnh chính là tính Phật (Phật tính, như lai tạng). Các tính đức này đều có trong tâm tạp nhiễm (impure mind), chỉ khác ở mức độ, là tâm tạp nhiễm (= thức thứ tám, thức a lại da, tàng thức, chân thức = tính phật bị ngăn ngại bởi vô minh) có bị nhơ nhuốm : từ tính không khởi lên cái tôi – chủ thể (from emptiness arises the me-subject), từ viên minh khởi lên cảm thức về khách thể (from lucidity arises the sense of otherness), từ nhận biết phân biệt không gì chướng ngại khởi lên tất cả các quan liên được đặt : cơ sở trên tham, sân và si (from unobstructedness arise all relationships based on attraction, repulsion, and ignorance).

Với sự chia chẻ này, cái thức nhơ nhuốm hoặc thức nhị nguyên sinh ra – cái thức một – ai – đó có một – cái – gì – đó. (with this split, contaminated consciousness or dualistic consciousness occurs – the consciousness that someone has something). Đó là cái thức thứ bảy (= ý; mạt na) có sáu thức : nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thứcý thức (= thức thứ sáu = thức = mạt na thức) làm phụ tá đi theo ( entourage).

. Văn học cổ điển luận tạng chỉ nói đến hai trung hữu chết và tái sinh. Phật giáo Tây tạng theo tông Nyingma và Kagyu nói đến sáu trung hữu : trung hữu đời sống, thiền định, giấc mộng, thời điểm chết, pháp tính, và tái sinh.

. Nói tổng quát, thân được kiểm soát bởi năm gió năng lượng chính : gió mang sự sống (life – bearing wind), gió hướng thượng (upward – moving wind), gió lan toả khắp (pervasive wind), gió có lửa (fire – dwelling wind : gió mang sức nóng) và gió xuống khoảng trống (downward – voiding wind : gió vào các xoang trống của cơ thể). Những gió này làm sinh động (animate) cơ thể và nếu hoạt động tốt bảo đảm sức khoẻ tốt.

Vào thời điểm chết một loại gió khác hiển hiện gọi là gió nghiệptái sinh (the wind of karma and becoming : gió nghiệp và hữu; gió nghiệptrở thành). Nó luôn luôn phân tán khắp cơ thể. Khi nó hiển lộ, nó sinh khởican thiệp vào các gió khác ; các triệu chứng bệnh lí xuất hiện khi thân tiếp cận với cái chết.

---------------------------------------------------------------------------------

5. [ Viết theo “The Tibetan Book of the dead” giáo sư Robert A.F Thurman dịch và giải (Bản in 1994) ]

. Phức hợp thân – tâm (The body – mind complex) có thể phân tích thành ba mức : thô, vi tếcực vi tế. Mức thô gồm cơ thể của thịt, máu, xương và các chất khác, đó là năm đại : địa, thuỷ, hoả, phong, và không (elements of earth, water, fire, wind, and space) và tâm thô của sáu thức : nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và ý.

Thân vi tế gồm hệ thần kinh trung ương, kinh mạch thần kinh, ba trục kinh mạch trung ương ( three channel central axis) chạy từ điểm giữa hai chân lông mày tới đầu mở của cơ quan sinh dục, trên có bảy trung tâm năng lượng gọi là luân xa (=wheels) hoặc hoa sen (complexes or lotuses).

Trong hệ thống thông lộ với 72.000 kinh mạch này có những điểm tinh tuý (Seminal Point hoặc giọt vi tế: Subtle drop) (Sanskrit : bindu ; Tạng ngữ : Thig-le) chuyển thông tính giác, được vận chuyển bởi những năng lượng vi tế gọi là gió ( within this network of pathways there Subtle “drops” of awareness-transmitting substances, moved around by subtle energies called winds).

Tâm vi tế tương ứng với các cấu trúc và những năng lượng này gồm có ba trạng thái tự nội hiển hiện nơi tâm thức khi năng lượng tức thời có tính chủ thể được rút lui khỏi các thức thô (the instant subjective energy is withdrawn from the gross senses).

Ba trạng thái này được gọi là quang sắc mặt trăng (luminance : nguyệt quang phổ chiếu), quang sắc mặt trời (radiance : nhật quang biến chiếu) và quang sắc bóng tối (imminence : u minh quang chiếu ; quang chiếu cõi âm) (quang sắc bóng tối này là trạng thái sâu thẳm nhất của tâm vi tế). Ba quang sắc này tương tự với nguyệt quang thanh tịnh (pure moonlight), nhật quang thanh tịnh (pure sunlight) và u minh quang thanh tịnh (pure darkness).

. Quang sắc bóng tối (darkness, dark-light) là biểu hiện thực nghiệm có tính chủ thể đạt đến mức sâu thẳm nhất của tâm vi tế, mức của u minh quang chiếu (imminence, dark-lit imminence) khi hữu tình sắp ngộ nhập quang minh tối hậu của bản giác (in a state of being about to enter the clear light of the ultimate). Nó thì tương tự như bầu trời đêm không mây, tuy tối đen vẫn trong sáng thấu suốt, không phải chỉ thuần là vắng mặt của ánh sáng.

Hai trạng thái của tâm vi tếnhật quang biến chiếu (sun-lit radiance) và u minh quang biến chiếu (dark-lit radiance) cũng đôi khi gọi là những quang minh phổ chiếu (luminances) và đôi khi gọi là những tuệ quang (luminance wisdoms), chỉ cho ánh sáng màu nhiệm của bát nhã. (cũng đồng nghĩa với tuệ nhật, tuệ chiếu).

Kinh Vô lượng thọ nói “tuệ quang trong sáng nhiệm màu hơn cả mặt trời, mặt trăng”. Nên nhớ ánh sáng bên ngoài, chỉ nhìn thấy được khi ánh sáng gặp phải chướng ngại. Thế nên khi nhìn qua phi thuyền du hành không gian, khi thấy bóng tối mênh mông thì không có nghĩa là không có ánh sáng.

. ‘Clear light’ là một từ Anh ngữ dịch từ “od gsal” của Tây tạng thế nên nghĩa không sâu sắc bằng từ gốc prabhasvara (của Sanskrit) có rất nhiều nghĩa : là giác chiếu phát quang, phát sáng, quang minh biến chiếu thực tại thâm sâu của pháp giới, vượt ngoài nhị nguyên sáng và tối (beyond the duality of bright and dark), quang minh tự chiếu của vạn hữu (a light of self-luminosity of all things).

Giáo sư Robert A.F Thurman nói : “It is a light …different from the lights of sun, moon, and rahu, the planet of the darkness”. Giáo sư đề nghị từ “transparency” và “clear light transparency”.

Ở đây và bây giờ, chúng ta nhớ đến Đức Phật A di đà với 12 danh hiệu : Vô lượng quang, Vô biên quang, Vô ngại quang, Vô đối quang, Diệm vương quang, Thanh tịnh quang, Hoan hỉ quang, Trí tuệ quang, Nan tư quang, Bất đoạn quang, Vô xứng quang, Siêu nhật nguyệt quang và nhớ đến Tự tính Di đà và nhớ đến nhất tâm đỉnh lễ, tán lễ về bậc thượng 18 lễ, lễ thứ 13: Nhất tâm đỉnh lễ, cực lạc thế giới, thọ mạng vô biên, quang minh vô lượng, phổ ứng thập phương, lâm chung tiếp dẫn A di đà phật.

Ở đây cũng xin ghi lại định nghĩa từ Phật Quang Đại Từ Điển, bản dịch Thích Quảng Độ, bản in năm 2000 : “Ánh sáng của đức Phật A di đà có 12 thứ, trong đó, Vô ngại quang có nghĩa là ánh sáng của Phật A di đànăng lực phá tan các chướng ngại về nhân, pháp ; bất luận các chướng ngại bên ngoài như núi, sông, mây, mù …hay các chướng ngại bên trong như tham, si, mạn đều không ngăn che được ánh sáng ấy, cho nên gọi là vô ngại quang. Bởi thế cho nên đức Phật A di đà còn được gọi là Vô ngại quang Phật”.

Thế nên “clear light transparency” có thể dịch là vô ngại quang, hoặc siêu nhật nguyệt quang, hoặc thanh tịnh quang, thường tịch quang, v.v…

. Cuối cùng, là mức cực vi tế của thân – tâm, nơi nhị - nguyên thân tâm được tự buông bỏ. Đây là điểm tinh tuý (= giọt vi tế) bất khả hoại, được gọi tên là ‘năng lượng – tâm bất khả phân li của thanh tịnh quang / quang minh thanh tịnh’ (This is the indestructible drop, called “the energy – mind indivisible of clear light transparency)

[Người dịch bản Việt gọi nó là Tịnh quang tâm / hoặc Nhất điểm linh quang. Nhất điểm ở đây hiểu theo nghĩa nhất như, như như, nhất chân pháp giới].

Nó chính là tính Phật, nhất như với thật tại, vượt ngoài nhị nguyên đối đãi, nhất như với pháp thân chư Phật, và thực chứng của nó trong trải nghiệm là mục đích của” Quyển sách về giải thoát tự nhiên (Tử Thư Tây Tạng) thực ra chỉ là giọt bất khả hoại này ở mức cực vi tế. [Theo Atiyoga, thì Nhất điểm linh quang (Unique Seminal Point ; Tạng ngữ : thig-le nyag-gcig) là đồng nghĩa với pháp thân Phật – Buddha-body of reality. ĐHP]

Đây là tính của mỗi hữu tình. Nó tạo nên vô số tiến trình tái sinh. Nó chính là vô môn quan của giải thoát, luôn luôn mở, thể tính vẫn là tự do, mặc dầu hữu tình xoay quanh nó, đồng nhất nó với những trạng thái đổi thay biến động của đau khổ. Nó thì an lạc, trong sáng, không tạo phiền não, và không tạo tác. Biết nó là gì đã làm Đức Phật mỉm cười (Knowing it is what made the Buddha smile). Nó là cái làm chư phật và hữu tình giống nhau.

Tâm, Phật, chúng sinh tam vô sai biệt (Kinh Hoa Nghiêm).

--------------------------------------------------------------------------------

. Quyển sách cao quý về tự giải thoát qua sự hiểu biết trong trung hữu :

Trung hữu thời điểm chết

Ồ ! giờ đây khi trung hữu thời điểm chết khởi sáng trên tôi.

Tôi sẽ buông bỏ tất cả các mối bận lòng của cái tâm muốn đủ thứ .

Để vào thẳng ngay tinh tuý trong sáng nhiệm màu của chỉ giáo và nhập vào chân không vô sinh của bản giác.

Sắp mất đi cái thân này tạo nên bởi máu và thịt

Tôi sẽ thực chứng nó chỉ là một sát na huyễn mộng.

--------------------------------------------------------------------------------------------

. Kính lễsám hối

Kính Lễ Ứng Hoá Thân Phật Liên Hoa Sinh

Con xin chân thành sám hối về các sai lầm trong bản dịch và chú thích này : Đặng Hữu Phúc.

. Người dịch vẫn mong độc giả từ bi chỉ giáo.

--------------------------------------------------------------------------------------------

6. Bản Phật Phổ Hiền. Tự do đầu tiên và cuối cùng

[ Từ “Dzogchen. The Heart Essence of the great Perfection. H.H The Dalai Lama” (2000) ]

Hỏi : Các hữu tìnhtự do ý chí không ?

Dalai Lama : Theo phật giáo, các cá nhân là những người chủ của chính những gì sắp xảy đến cho họ (their own destiny: định mệnh của chính họ). Tất cả chúng sinh được tin tưởng có tính của Bản Phật Phổ Hiền ( the nature of the Primordial Buddha Samantabhadra), tiềm năng hoặc hạt giống của giác ngộ, ở trong họ. Thế nên tương lai của chúng ta ở trong chính bàn tay của chúng ta. Có tự do ý chí nào lớn hơn chúng ta sẽ cần đến?

 [Samantabhadra = All Gơod One = All–around Good = Phổ Hiền ]

---------------------------------------------------------------------------------

7. Tính bản phật phổ hiền là tự do đầu tiên và cuối  cùng của mỗi hữu tình.

--------------------------------------------------------------------------------

Nguồn : Đặc San Hiện Thực số 18/ 2009 Năm thứ 5 , trang 36-51

 

Yeshe Tsogyal

From Wikipedia, the free encyclopedia:

Yeshe Tsogyel, also known in the Nyingma tradition as the Great Bliss Queen, is a semi-mythical female deity or figure of enlightenment (dakini) in Tibetan Buddhism. She lived from 757 to 817, and is most identified as the mystic spiritual Yab-Yum consort of the great Indian tantric teacher Padmasambhava ("the Lotus-Born One"), who was invited to Tibet by the Emperor Trisong Detsen.

Though a consort of Padmasambhava, Yeshe Tsogyel became a master in her own right.[1]

Both the Nyingma and Karma Kagyu schools of Tibetan Buddhism recognize Yeshe Tsogyal as a female Buddha. The translators of Lady of the Lotus-Born, the namthar or spiritual biography that Yeshe Tsogyal left as a terma observe:

As Dodrup Tenpai Nyima makes clear, beings able to reveal Termas must have at least the realization of the Perfection Stage practices. On the other hand, the one who originates the Treasures must have the supreme attainment of Buddhahood. Lady of the Lotus-Born is thus a testimony of Yeshe Tsogyal's enlightenment.[2]

From the mouth of a lotus was born
The swift goddess, heroic liberator
Who went forth in human form
Amid the snowy mountains of Tibet.[3]

Among lay Tibetans she is seen as a Buddha who takes the form of an ordinary woman so as to be accessible to the average person, "who, for the time being, do not see her Vajravarahi form as a fully perfected deity."[4] In fact,

She displays whatever emanation form will tame
Any given [person], just as, for example, the full moon in the sky
Emerges as [various] reflections in different water vessels.[5]

According to legend she was born in the same manner as the Buddha, a Sanskrit mantra sounding as her mother gave birth painlessly, and she is considered a reincarnation of the Buddha's own mother, Maya Devi. Her name ("Primordial (ye) Wisdom (shes) Queen (rgyal mo) of the Lake (tso)") derives from her birth causing a nearby lake to double in size.[4]

As a young girl, she is said to have prayed for the happiness of all sentient beings. At the age of sixteen, she was initiated into Buddhism by GuruQueen consorts of Trisong Detsen, she was given to Padmasambhava and became his main spiritual consort. After many years of diligent study she achieved a level of enlightenment equal to his. Yeshe Tsogyal was the main compiler of Padmasambhava's teachings, and it was she who concealed most of the termas.[citation needed] Padmasambhava. Although she was originally one of the

Tsogyel, though fairly obviously a transformation of an older Bön figure, Bönmo Tso (female Bön practitioner of the lake), whom she debates in her "autobiography", also preserves the Great Completeness traditions shared by Bön with Tibet's earliest Buddhist tradition. As the wife of Tri-song-day-tsen and the consort of Padmasambhava, given to him at her request by the king, she also stands historically at the beginning of Buddhism's eclipse of Bön in Tibet. She is also considered a manifestation of Sarasvati and sometimes identified with the Bodhisattva Tara.[4]

In the '“Life of Yeshe Tsogyel,” Padma Sambhava predicted that Yeshe Tsogyel would be reborn as Machig Lapdron; her consort, Atsara Sale [6], would become Topabhadra, Machig’s husband; her assistant and Padma Sambhava’s secondary consort, Tashi Khyidren, would be reborn as Machig’s only daughter, and so on. All of the important figures in Tsogyel’s life were to be reborn in the life of Machig Lapdron, including Padma Sambhava himself, who would become Phadampa Sangye.[7]

According to Karmapa lineage Tsogyel had attained Buddhahood in that very life. On the Gyalwa Karmapa website it is said that she -some thirty years before transcending worldly existence- finally emerged from an isolated Meditation Retreat (796-805) as "a fully Enlightened Buddha " (samyak-saṃbuddha).[8]

Zhitro

blankYeshe Tsogyal statue in Samye Ling, Scotland

Gyatso (2006) relates the background to how the Zhitro (also spelled: Shitro, Xitro) was received by the wang of a Vidyadhara through the Bardo of trance:

After succeeding in a variety of feats, including beheading a tiger, she gains access to an elaborate palace where she receives esoteric initiations from several vidyādharas and buddhas. She returns to Chingpu and after a year is robbed by seven bandits whom she then converts to Buddhist practice. She proceeds with the bandits on a magic carpet to the place Oḍḍiyāna where they all receive peaceful and wrathful deity practice (zhitro) initiations from a vidyādhara, who gives her the secret name Kharchen Za and cavorts in bliss with her.[1]

Citing Padmasambhava

Padmasambhava is supposed to have said to her: "The basis for realizing enlightenment is a human body. Male or female, there is no great difference. But if she develops the mind bent on enlightenment the woman’s body is better" (quoted by Stevens, 1990, p. 71).

Padmasambhava and Yeshe Tsogyal in dialogue

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22931)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22459)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21736)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23309)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21149)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21742)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22207)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20389)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20032)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21917)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24714)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18952)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23953)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27745)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26490)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38084)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18794)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18416)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19921)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19010)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23123)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22887)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18682)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15822)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18817)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20131)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18096)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16403)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16899)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39173)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 20075)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18800)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24031)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29079)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22893)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30911)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20992)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26821)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20649)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26226)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23306)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19807)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15804)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19817)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28931)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20650)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19394)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30451)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36386)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33174)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35498)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20939)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21899)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25231)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25760)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31227)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant