Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Nền Tảng Của Khoa Học

30 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 18095)
Phật Giáo Nền Tảng Của Khoa Học


PHẬT GIÁO NỀN TẢNG CỦA KHOA HỌC
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch

blank

MỤC LỤC

LỜI NÓI ÐẦU

I. KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
Một tiến bộ đáng ngờ
Sự rời bỏ khoa học và thiên nhiên
Hai loại kỹ thuật
Vị thế của đạo đức
Khoa học và kỹ thuật không thể rời nhau
Tiến đến mức giới hạn, không tìm đuợc câu trả lời
Gía trị và động cơ
Ðàng sau sự thịnh vượng...
II. TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC

Từ cùng lúc chung khởi đến lúc chia rẽ
Nhiều tôn giáo, một khoa học
Tuy minh bạch nhưng vẫn bối rối
Khi niềm tin vào khoa học bị lung lay, sự sùng bái tôn giáo thăng hoa
Chẳng hơn gì những sai lầm ngớ ngẩn
Khi khoa học và tôn giáo hợp nhất, nhân loại sẽ nhận thức đuợc điều thiện tối thượng.
III. KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO: CUỘC GẶP GỠ HAY PHÂN LY?

Giống tôn giáo, nhưng ...
Tôn giáo thiên nhiên: hiểu biết thiên nhiên bằng trí tuệ
Thiện và ác
Nghiệp Luật - Luân lý khoa học
Vấn đề tự do ý chí
IV. NIỀM TIN TRONG KHOA HỌC VÀ ÐẠO PHẬT

Vai trò của niềm tin
Sự khác biệt giữa niềm tin trong Phật Giáo và khoa học
Con người hay cái tôi là trung tâm
Khoa Học chỉ tìm hiểu sự thật của các vấn đề bên ngoài con người.
Tương đồng trong phương pháp nhưng khác biệt trong việc đặt tầm quan trọng.
Những khác biệt trong phương pháp
V. TIẾN VÀO RANH GIỚI CỦA TÂM

Giới hạn của kiến thức khoa học
Thế giới vật chất: Việc làm không hoàn tất của khoa học
Đạo đức: Một chân lý chờ đợi sự xác minh
'Cái gì chân lý', 'Cái gì phải ra sao'
Chân lý thật sẽ là nền tảng của khoa học
Chấp nhận giác quan thứ sáu
VI. MỘT VÀI ÐỀ NGHỊ ÐỂ CẢI TIẾN

Quá ít
Quá trễ
Vấn đề phát triển chỉ có thể đề cập tới khi thực sự hiểu được các giá trị
Khuyến khích kỹ thuật xây dựng
TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

LỜI NÓI ÐẦU

Bài thuyết trình trong Ngày Khoa Học Quốc Gia tại Ðại Học Chiang Mai, Bắc Thái Lan, ngày 16 Tháng 8 Năm 1991 với nhan đề: "Phật Giáo, Nền Tảng của Khoa Học"

Hôm nay, Phân Khoa Khoa Học của Ðại Học Chiang Mai, có nhã ý cho tôi vinh dự đến đây thuyết trình với quý vị trong dịp quan trọng này. Tôi được biết đa số quý vị rất ngạc nhiên thấy một tu sĩ Phật Giáo lại được mời đến để nói chuyện về khoa học. Sự việc có vẻ hình như bất thường, tôi cảm thấy phản ứng này không có lý do xác đáng. Chúng ta hãy cùng nhau đả thông tư tưỏng trước khi vào phần thuyết trình, hầu tâm trí chúng ta được vô tư.

Quan niệm một nhà sư là chuyên gia tôn giáo nói chuyện về vấn đề khoa học có thể do kết quả của khuynh hướng hiện đại. Thời đại của chúng ta là một thời đại của các chuyên gia. Chúng ta có khuynh hướng sắp xếp các chuyên viên nào là nhà tôn giáo, khoa học gia, kinh tế gia, chính trị gia vân vân.., sắp mỗi người vào riêng lãnh vực chuyên môn riêng của mình. Nhưng chúng tôi cảm thấy chúng tôi không phải là một chuyên gia tôn giáo, và chúng tôi không muốn người ta gọi chúng tôi như vậy. Ðơn giản, chúng tôi chỉ là nhà sư.

Những nhà sư và những chuyên viên tôn giáo không phải là một. Muốn trở thành một nhà sư Phật Giáo là muốn sống một cuộc sống tu hành. Nói cho hợp với xu hướng ngày nay, chúng ta có thể nói đó là cách sống "chuyên biệt". Mặt khác, tôn giáo là một ngành chuyên về kiến thức. Một người có một lối sống đặc biệt, có một vai trò xác định bởi những kỷ luật của lối sống ấy, một lối sống, trong trường hợp này, được hoạch định để người đó sống hết khả năng, về cả hai mặt cá nhânxã hội. Các chuyên khoa ra đời là do việc phân chia kiến thức thành các loại. Trong việc phân chia này, không có sự lưu tâm đến lối sống, mà chỉ có mối quan tâm học thật đơn thuần. Duới ánh sáng ấy, coi nhà sư là một chuyên gia tôn giáo là không đúng.

Cho nên việc tổ chức thuyết trình này, "Phật Giáo, Nền Tảng của Khoa Học", không thể được coi như cuộc gặp gỡ của hai môn học thuật, nếu không, quý vị sẽ có cảm tưởng sắp sửa mục kích một cuộc đối chất kỳ dị khác thuờng.

Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta. Các khoa học gia là những chuyên viên của ngành kiến thức này, những người liên quan mật thiết nhất đến khoa học, và bây giờ các khoa học gia sẽ cho người ngoài cơ hội nhìn vào khoa học, nhận xét về khoa học. Hiểu như vậy, chúng tôi nghĩ rằng quý vị sẽ dễ dàng theo dõi bài thuyết trình của chúng tôi.

Với tư tưởng trên, quí vị sẽ thấy, không nhất thiết diễn giả, một người không liên quan đến khoa học, phải có kiến thức rộng sâu về đề tài khoa học. Thuyết trình viên có thể biết một số vấn đề, có thể ngu dốt với một số vấn đề, có thể nói đúng hay sai, nhưng dầu sao cũng có một điều gì đạt được trong bài thuyết trình, dù chỉ là ý kiến của người bên ngoài nhìn các khoa học gia như thế nào.

Bây giờ ta thử xem, được lợi ích gì từ sự hiểu biết này? Thực tình mà nói, chúng ta không thể sống hay hành động đơn phương một mình được. Chúng ta chịu ảnh hưởng lẫn nhau về lối suy nghĩ và những biến cố chung quanh. Chúng ta có thể làm việc chặt chẽ với người khác và các ngành khác của kiến thức khác. Nếu tác động qua lại này thành công, chất lượng công việc sẽ gia tăng. Nếu tác động hỗ tương không thành công, hoạt động cũng như lãnh vực kiến thức của chúng ta sẽ không kết quả vì bị ảnh hưởng. Vì thế, mời một người ngoài nhìn vào và nhận xét về khoa học là rất hữu ích, giúp cho quý vị có tầm nhìn xa trông rộng, tác động qua lại với thế giới bên ngoài và các ngành học thuyết khác, giúp lợi ích thêm cho công việc của quý bạn. Kết quả sẽ là quan điểm khoáng đạt, linh hoạt hơn.

Cho nên chúng ta đều đồng ý nên có bài thuyết trình về khoa học dưới con mắt của một người bên ngoài, một nhà sư Phật giáo trong trường hợp này. Nhà sư Phật Giáo này có nhãn quan về khoa học như thế nào, vấn đề sẽ được trình bày sáng tỏ trong phần tới.

Một điểm phụ, chúng tôi muốn bầy tỏ cho rõ ràng trước khi vào phần chính của bài nói, có liên quan đến đầu đề bài thuyết trìnhthuyết trình viên thạm chí còn tuyên bố ngay: Phật Giáo là nền tảng của khoa học! Tôi không nêu lý do tại sao lại đặt đầu đề này ngay bây giờ, nhưng sẽ nói đầu đề này được lấy cảm hứng từ lời tuyên bố của một khoa học gia, một nhà khoa học vĩ đại. ông không nói đúng hẳn những lời như trên, nhưng tôi không nghĩ là đã xuyên tạc lời ông. Dù sao đi nữa tôi cũng không đặt quá nhiều tầm quan trọng vào vấn đề này vì lát nữa tôi sẽ trình bày sau. Tôi không nghĩ rằng quý vị lại tự mình thắc mắc về Phật Giáo có phải là nền tảng của khoa học hay không, hoặc có lợi gì sau buổi tọa đàm hôm nay, đó là chuyện mà quí vị tự do quyết định theo ý của mình.

Thêm vào, tôi muốn làm sáng tỏ ý nghĩa của hai chữ mà tôi sử dụng trong suốt bài thuyết trình, đó là ' Phật Giáo' và 'Khoa Học'.

Phật Giáo trong phạm vi này không có nghĩa chỉ là hình thức thể chế của Phật Giáo, mà là giáo lý chủ yếu, một đặc tínhtính cách trừu tượng.

Về khoa học, có thể chúng tavấn đề khó khăn. Một số các khoa học gia có thể cảm thấy trong phạm vi này, chỉ có Khoa Học Thuần Túy mới được cứu xét, không phải Khoa Học Ứng Dụng hay kỹ thuật.Nhưng với một người bình thuờng, khi nghĩ tới chữ 'khoa học'', thường nghĩ đến ý nghĩa tổng quát chứ không nghĩ đến nghĩa hẹp của nó. Chính tôi cũng là một con người bình thuờng, một chúng sanh, không khác biệt gì những người khác, một người bên ngoài. Cho nên, chúng tôi nói đến khoa học theo lối thông thường, không phân biệt Khoa Học Ứng Dụng hoặc Thuần Túy. Lúc nào phân biệt tôi sẽ nêu rõ khi đề cập đến.

... Về cơ bản, khoa học với thiên nhiên là một, nhưng ngày nay đa số mọi người cảm thấy cái mà ta gọi là khoa học không phải là thiên nhiên...

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22930)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22457)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21734)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23308)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21148)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21742)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22207)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23594)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20389)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20032)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21917)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24713)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18952)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23953)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27745)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26490)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38084)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18793)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18407)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19920)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19009)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23123)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22886)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18680)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15822)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18816)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20131)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 16403)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16897)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39173)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26016)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20075)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18798)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24030)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29079)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22893)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30903)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20991)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26821)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20649)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26225)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23304)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19806)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15804)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19816)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28931)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20650)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19393)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30449)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36385)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33172)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35498)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20938)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21898)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25231)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25760)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31227)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant