Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh Tấn Siêu Việt - Thực Hành Của Một Bồ Tát

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 23307)
Tinh Tấn Siêu Việt - Thực Hành Của Một Bồ Tát

TINH TẤN SIÊU VIỆTTHỰC HÀNH CỦA MỘT BỒ TÁT
Dilgo Khyentse Rinpoche

blankChỉ để làm lợi ích cho riêng mình, ngay cả các Thanh Văn và Phật Độc Giác
Cũng phải nỗ lực như người cứu đầu mình đang bốc cháy:
Nhìn thấy điều này, để làm lợi lạc tất cả chúng sinh,
Thực hành hạnh tinh tấn, cội nguồn của những phẩm hạnh tuyệt vời, là thực hành của một Bồ Tát.

Để đánh thức và phát triển tất cả các phẩm hạnh siêu việt (ba la mật), tinh tấn là một hạnh trọng yếu. Tinh tấn là sự nỗ lực đầy hoan hỉquyết tâm tích cực để thực hiện những hành động tốt đẹp mà không có chút mong cầu hay tự mãn nào.

Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ mà bạn mặc nó như áo giáp chống lại sự ngã lòng. Thứ hai là “tinh tấn trong hành động,” là loại tinh tấn để bắt đầu tích tập công đức qua thực hành sáu ba la mật mà không chậm trễ hay trì hoãn. Thứ ba là “tinh tấn không thể ngừng dứt,” một năng lực vô bờ và liên tục để làm việc cho chúng sinh. Sự tinh tấn nên làm thấm đẫm việc thực hành các ba la mật khác và gia thêm sinh lực cho tất cả những ba la mật đó.

Loại tinh tấn thứ nhất, tinh tấn như áo giáp, là mặc áo giáp của sự quyết tâm mạnh mẽ và can trường khiến bạn chẳng bao giờ là nạn nhân của những chướng ngại do bốn quỷ ma tạo ra (những cảm xúc tiêu cực, tham luyến tiện nghi, bệnh tật vật lý, và cái chết), mà dù có thế nào chăng nữa, bạn cũng sẽ kiên trì trong những nỗ lực của bạn để hoàn thành các hoạt động phi thường của một Bồ Tát cho tới khi bạn an lập tất cả chúng sinh trong sự giác ngộ.

Loại thứ hai, tinh tấn trong hành động, là sự kiên trì quả quyết trong việc thực sự áp dụng ước nguyện đó. Khi cảm nhận một niềm hoan hỉ lớn lao về việc bạn có thể thực hành, đi trên năm con đườngđạt được mười cấp bậc,1 bạn thực hiện một cách nhiệt tâm vô vàn hoạt động đáng ca ngợi, đặc biệt là việc nghiên cứu, quán chiếuthiền định. Khi dấn mình vào tất cả những hoạt động này, hãy duy trì một dũng khí bất khuất và không bao giờ chịu làm nạn nhân của sự ngã lòng, lười biếng hay trì hoãn.

Loại thứ ba, tinh tấn không thể ngừng dứt, là năng lực không gì có thể thỏa mãn để làm việc liên tục cho chúng sinh. Ngày và đêm, hãy dấn mình vào mọi phương cách có thể, một cách trực tiếp hay gián tiếp, trong những tư tưởng, lời nói, và hành động của bạn để làm lợi lạc chúng sinh. Nếu bạn không thể trực tiếp giúp đỡ họ, bạn không nên lưu giữ điều gì trong tâm ngoài việc làm lợi lạc cho người khác, và hồi hướng mọi sự bạn làm cho việc thành tựu Phật quả của họ. Đừng bao giờ cảm thấy tự mãn bởi một vài phẩm hạnh tốt lành mà bạn có thể đạt được, và đừng bao giờ để sự sỉ nhục của người nào đó hay những nghịch cảnh làm bạn trệch khỏi những mục đích của bạn. Hãy luôn luôn kiên quyết tiếp tục cho tới khi bạn đạt được mục đích.

Đối nghịch với mỗi loại tinh tấn này là một loại lười biếng tương ứng.

Loại lười biếng thứ nhất là không ước muốn gì ngoài sự tiện nghi của riêng bạn. Điều đó biểu lộ như một khuynh hướng mê ngủ và lười nhác, khao khát sự thỏa mãntiện nghi tức thì cũng như trong việc không để ý tới Giáo Pháp. Cách đối trị cho loại lười biếng này là thiền định về cái chết và sự vô thường.

Loại lười biếng thứ hai là tánh nhút nhát. Thậm chí bạn cảm thấy ngã lòng trước khi bạn bắt đầu cố gắng làm điều gì đó, bởi bạn nghĩ rằng một người như bạn sẽ chẳng bao giờ đạt được giác ngộ cho dù bạn hết sức cố gắng tới đâu chăng nữa. Cách đối trịcủng cố sự kiên cường của bạn bằng cách quán chiếu về những lợi lạc của sự giải thoátgiác ngộ.

Loại lười biếng thứ ba là việc không biết tới những ưu thế chân thực của bạn. Bạn trở nên vướng kẹt trong những tập quán tiêu cựcvô ích. Quên lãng hay phớt lờ những mục đích sâu xa, bạn hoàn toàn bận tâm về những vấn đề hạn hẹp của cuộc đời này. Cách đối trị là hãy nhận ra rằng tất cả những mối bận tâm tầm thường như thế sẽ chỉ luôn luôn là nguyên nhân của sự đau khổ, và hãy ném chúng đi thật xa.

Người ta làm việc với nỗ lực to lớn cả ngày lẫn đêm để hoàn thành những điều chỉ nhắm đến sự tiện nghi, danh tiếng, và quyền lực của riêng họ - nói cách khác, đó là những điều mà về lâu về dài thì hoàn toàn vô nghĩa. Tuy nhiên, trong những gian khó mà bạn có thể phải trải quaGiáo Pháp, sẽ chẳng gian khó nào mà không có ý nghĩa. Những hoàn cảnh khó khăn bạn trải nghiệm sẽ giúp bạn tịnh hóa những tiêu cực được tích tập trong nhiều đời quá khứ và thâu thập công đức như một sự dự phòng cho những đời sau. Những đời sau ấy bảo đảm là sẽ tràn đầy ý nghĩa.

Không có tinh tấn, Bồ đề tâm và các hoạt động của một Bồ Tát sẽ không có phương tiện để bắt rễ và phát triển trong tâm bạn. Như Padampa Sangye đã nói:

Nếu lòng kiên trì của quý vị không có sức mạnh, quý vị sẽ không đạt được Phật quả;
Dân chúng Tingri, hãy bảo đảm là quý vị khoác lên người áo giáp (tinh tấn).

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nổi danh về việc đưa tinh tấn siêu việt tới sự toàn thiện tối thượng của nó. Năng lựccông đức được phát triển bởi nỗ lực của ngài trải qua vô lượng cuộc đời đã có thể khiến cho ngài tái sanh làm một Đại Đế một ngàn lần, nhưng thay vào đó ngài đã quyết định hướng toàn bộ nỗ lực của ngài vào việc thành tựu Giác ngộ. Là những môn đồ của Đức Phật, chúng ta nên sử dụng câu chuyện cuộc đời ngài và những tiểu sử của các vị thánh vĩ đại trong quá khứ như những gương mẫu đầy cảm hứng. Chẳng hạn như Đức Jetsun Milarepa đã phô diễn nỗ lực không thể tin nổi, trải qua nhiều gian khổ để đạt được những mục đích sâu xa của ngài. Vairochana2 đã tới Ấn Độ để cầu Pháp khi còn rất trẻ, trải qua năm mươi bảy khó khăn không thể chịu đựng nổi để có được các giáo lý và nhiều lần ngài suýt mất mạng. Ngài và các dịch giả vĩ đại khác của Tây Tạng đã gặp những gian khổ ghê gớm trên bước đường du hành – sức nóng thiêu đốt và những cơn sốt, kế đó là chứng bệnh địa phương trong những đồng bằng Ấn Độ, sự hận thù khắc nghiệt của những nhà cai trị địa phương v.v.. Tuy nhiên các ngài đã kiên trìthành công trong việc đưa Giáo Pháp đích thực trở về Tây Tạng.

Ngày nay bạn đang sống trong những quốc gia ở đó Giáo Pháp chỉ mới bắt đầu bén rễ, giống như một chồi non yếu ớt trên mặt đất. Chỉ có sự tinh tấn kiên trì liên tục của bạn mới làm cho nó có được trái quả. Tùy thuộc vào nỗ lực mà bạn đặt vào việc nghiên cứu, quán chiếuthiền định, và việc kết hợp những gì bạn hiểu vào thực hành tâm linh, sự thành tựu có thể xảy đến trong nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm. Điều thiết yếu là hãy nhớ tưởng rằng mọi cố gắng của bạn trên con đường là vì chúng sinh. Hãy khiêm tốn và nhận thức rằng những nỗ lực của bạn chỉ như trò chơi của đứa trẻ nếu so sánh với hoạt động như đại dương của các đại Bồ Tát. Hãy giống như một bậc cha mẹ cung cấp cho những đứa con hết sức yêu quý, đừng bao giờ nghĩ rằng bạn đã làm quá nhiều cho người khác – hay ngay cả bạn đã làm đầy đủ. Nếu cuối cùng bạn đã ráng sức, chỉ bằng những nỗ lực của chính bạn, để an lập tất cả chúng sinh trong Phật quả, bạn hãy nghĩ tưởng một cách giản dị rằng mọi ước nguyện của bạn đã được hoàn thành. Đừng bao giờ có mảy may hy vọng nào là bạn sẽ được đền đáp.

So với một vị Thanh Văn hay Phật Độc Giác thì một Bồ Tát phải có sự tinh tấn lớn lao hơn rất nhiều, bởi Bồ Tát đã nhận trách nhiệm hoàn thành hạnh phúc tối thượng của Phật quả không chỉ cho bản thân mình mà còn cho vô lượng chúng sinh. Như có câu nói:

Vị anh hùng mang gánh nặng của tất cả chúng sinh trên đầu không có thời gian rảnh rỗi để bước đi chậm rãi.

Và:

Bởi tôi và tất cả chúng sinh bị trói buộc bằng một trăm xiềng xích,
Tôi phải nhân sự tinh tấn của mình lên một trăm lần.

Để tăng trưởng sự tinh tấn của bạn, hãy quán chiếu về mọi sự thậtvô thường. Cái chết là điều không thể tránh khỏi, có thể xảy ra bất thình lìnhvô cùng nhanh chóng. Trong sự soi rọi đó hãy nghĩ rằng những mối bận tâm thế tục của cuộc đời này thì thực sự cạn cợt và thiển cận biết bao, và bạn có thể tự do ra sao nếu bạn có thể xoay chuyển tâm bạn khỏi những bận tâm đó. Nếu bạn thình lình nhận ra rằng một con rắn độc đang ẩn nấp trong lòng bạn, trong nếp gấp y phục của bạn, bạn có chờ đợi để làm một hành động, ngay cả trong một giây?

Chú thích:

1. Bồ Tát là những bậc đã chứng ngộ bản tánh trống không của các hiện tượng và sự không hiện hữu của tự ngã. Các ngài thoát khỏi các klesha, hay những cảm xúc thông thường (các phiền não). Có mười cấp bậc Bồ Tát, hay mười bhumi (thập địa). Bhumi thứ mười một là địa của Phật quả viên mãn, là quả vị được chứng ngộ khi cả hai che chướng – che chướng của các klesha (phiền não chướng) và che chướng ngăn che trí tuệ tuyệt đối (sở tri chướng) – đã hoàn toàn được quét sạch theo một cách thức không thể thay đổi được. Theo một ý nghĩa rộng lớn hơn, Bồ Tát được mô tả như một người dấn mình vào việc thực hành giáo lý Đại Thừa.

2. Lochen Vairochana (lo chen bai ro tsa na): vị lỗi lạc nhất trong các dịch giả (hay lotsawa) Tây Tạng vĩ đại, của thời kỳ Cựu Dịch (snga ‘sgyur) và là một trong tám đệ tử thân thiết nhất của Guru Padmasambhava.

Thanh Liên trích dịch từ nguyên tác:
“The Heart of Compassion – The Thirty-Seven Verses on The Practice of a Bodhisattva” by Dilgo Khyentse Rinpoche

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22930)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22456)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21731)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 21148)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21740)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22203)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23591)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20386)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20029)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21915)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24712)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18950)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30943)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23951)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27743)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26488)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38080)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18790)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18407)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19912)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19005)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23121)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22886)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18680)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15821)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18815)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19630)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20129)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19921)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18094)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16400)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16893)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39170)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26016)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20074)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18797)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24029)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29079)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22892)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30901)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20989)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26819)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20648)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26224)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23302)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19804)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15804)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19815)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28929)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20649)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19389)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30447)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36383)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33171)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35497)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20937)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21896)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25230)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25760)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31225)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant